Một tài sản cùng lúc bán cho hai người

Pháp luật - Ngày đăng : 14:02, 19/11/2014

Cho rằng cơ quan chức năng không khởi tố hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” của ông Trần Bảo Khương là có dấu hiệu bao che, bỏ lọt tội, bà Lê Ngọc Sơn Ca đã có đơn tố cáo gửi các cơ quan chức năng…

Mượn lại sổ để… bán!

Nội dung vụ việc bắt đầu từ năm 2009, khi ông Trần Bảo Khương (SN 1981, trú tại quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng) bán cho bà Lê Ngọc Sơn Ca (SN 1988, trú 15/23 Nguyễn Trãi, phường Hải Châu II, quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng) một thửa đất có diện tích 190m2, thửa đất số 763(01), tờ bản đồ số 3 tại thôn 7A (nay là thôn Cổ An 5, xã Điện Nam Đông, huyện Điện Bản, Quảng Nam), giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số AL 875738 do UBND huyện Điện Bàn, Quảng Nam cấp ngày 28/10/2008. Hai bên thống nhất giá chuyển nhượng lô đất trên là 205 triệu đồng.

Ngày 1/2/2010, ông Khương và bà Ca làm hợp đồng chuyển nhượng thửa đất này và được công chứng tại Phòng Công chứng TP. Hội An (Quảng Nam). Tại Phòng Công chứng, sau khi ký hợp đồng mua bán lô đất trên, bà Ca và ông Khương thống nhất trừ số nợ mà ông Khương mượn trước đó là 20 triệu đồng, bà Ca thanh toán thêm 160 triệu đồng, tổng cộng số tiền là 180 triệu đồng. Còn lại 20.500.000 đồng sẽ thanh toán sau khi làm thủ tục chuyển tên sổ đỏ sang cho bà Ca.

Sau đó, ông Khương và bà Ca đã vào Phòng Tài nguyên - Môi trường huyện Điện Bàn để làm thủ tục chuyển đổi QSDĐ cho bà Ca nhưng chưa làm được vì đất của ông Khương đang nằm trong diện giải tỏa mở rộng đường. Đến ngày 3/4/2010, ông Khương mượn lại sổ đỏ từ bà Ca để tiến hành sang tên cho bà, đồng thời lúc này bà Ca đã đưa thêm cho ông Khương 10 triệu đồng. Theo đó, ông Khương cam kết vào ngày 25/12/2010 sẽ làm xong sổ cho bà Ca. Hết thời gian như đã hẹn nhưng không thấy ông Khương giao sổ nên bà đã trực tiếp đến Phòng Tài nguyên - Môi trường huyện Điện Bàn để hỏi thì được biết, vào ngày 16/12/2010, ông Khương đã bán lại thửa đất nói trên cho vợ chồng Trần Quang Vinh (SN 1971, trú tại phường Mỹ An, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng) với giá 380 triệu đồng và hợp đồng này đã được UBND xã Điện Nam Đông chứng thực.

Hình sự hay dân sự?

Cho rằng hành vi của ông Khương là vi phạm pháp luật, lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản mà trước đó ông đã bán cho bà nên bà Ca đã có đơn tố cáo ông Khương gửi Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng. Ngày 8/4/2011, CQCSĐT Công an quận Ngũ Hành Sơn đã có Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 16/QĐ về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng không thể khởi tố bị can đối với Trần Bảo Khương vì Khương bỏ trốn khỏi địa phương, chưa lấy được lời khai. Ngày 10/10/2011, CQCSĐT Công an quận Ngũ Hành Sơn đã ra quyết định tạm đình chỉ vụ án và ra thông báo truy tìm ông Khương gửi các đơn vị liên quan. Đến ngày 25/9/2013, ông Khương ra trình diện và khai rằng: “… Do trong quá trình mượn lại sổ đỏ để làm thủ tục sang tên cho bà Ca nhưng chưa làm, vì quá túng tiền trả nợ và thấy thửa đất có giá cao nên tôi đem thửa đất trên chuyển nhượng lại cho vợ chồng ông Vinh với giá 380 triệu đồng. Sau khi bán lại thửa đất cho vợ chồng ông Vinh, do vỡ nợ nên tôi bỏ đi khỏi địa phương để tránh nợ chứ không có mục đích bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của bà Ca và ông Vinh…”. Đến ngày 25/9/2012, ông Khương ra trình diện, gặp bà Ca để thương lượng, tuy nhiên bà không đồng ý và yêu cầu ông Khương tiếp tục thực hiện hợp đồng đã ký kết.

Một tài sản cùng lúc bán cho hai người

Sổ đỏ số AL 875738 được ông Khương chuyển nhượng cho bà Ca và ông Vinh

Ngày 12/2/2014, Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng đã có thông báo xác minh đơn thư của bà Ca và kết luận: “… Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ thu thập được, CQCSĐT Công an quận Ngũ Hành Sơn cho rằng, hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa ông Khương và bà Ca được công chứng tại Văn phòng Công chứng Hội An vào ngày 1/2/2010 đã có hiệu lực pháp luật, còn hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa ông Khương và ông Vinh được UBND xã Điện Nam Đông chứng thực ngày 16/12/2010 là vô hiệu vì: Sau khi chuyển nhượng thửa đất nêu trên cho bà Ca lấy tiền, ông Khương đã chuyển nhượng lại cho vợ chồng ông Vinh mà vợ chồng ông Vinh không biết thửa đất nêu trên, trước đó ông Khương đã bán cho bà Ca và bỏ đi khỏi địa phương. CQCSĐT Công an quận Ngũ Hành Sơn cho rằng, hành vi của ông Khương là có dấu hiệu gian dối để chiếm đoạt tài sản của vợ chồng ông Vinh nên đã khởi tố vụ án…”. Như vậy, Công an quận Ngũ Hành Sơn xác định, hành vi của ông Khương là lừa đảo đối với vợ chồng ông Vinh. Tuy nhiên, cũng trong phần kết luận, sau khi viện dẫn một số điều luật, Công an quận lại đưa ra kết luận ngược lại. Cụ thể, Điều 167 BLHS quy định: Quyền sở hữu (QSH) bất động sản phải được đăng ký theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đăng ký bất động sản… và khoản 1 Điều 168 BLHS quy định: Việc chuyển QSH đối với bất động sản có hiệu lực từ thời điểm đăng ký QSH… Khoản 2 Điều 439 BLHS quy định: Đối với tài sản mua bán mà pháp luật quy định phải đăng ký QSH thì tài sản được chuyển quyền cho bên mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký QSH đối với tài sản đó…

Căn cứ vào các quy định nêu trên, Công an quận Ngũ Hành Sơn kết luận: Hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Khương và bà Ca chưa có hiệu lực pháp luật, còn hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Khương với ông Vinh đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, hành vi của ông Khương không phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hay tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản…

Như vậy, Công an quận Ngũ Hành Sơn căn cứ vào các điều luật đó để xác định tài sản đã được sang tên đổi chủ hay chưa với mục đích xác định hành vi của ông Khương có phạm tội hay không? Trong khi đó, Công an quận không hề xét đến hành vi mà ông Khương đã thực hiện.

Sau khi nhận được kết luận từ CQCSĐT Công an quận Ngũ Hành Sơn, bà Ca không đồng tình nên tiếp tục gửi đơn đến các cơ quan có thẩm quyền cao hơn để chờ được xem xét.

Mạnh Cường