Mức chiết khấu sách giáo khoa hiện nay rất thấp
Giáo dục - Ngày đăng : 22:46, 01/10/2018
Mới đây, theo yêu cầu của Văn phòng Chính phủ, Bộ GD-ĐT báo cáo một số vấn đề về việc xuất bản, phát hành sách giáo khoa giai đoạn 2012 -2017.
Theo đó, như báo cáo của Bộ GD-ĐT, khi biên soạn sách giáo khoa để thực hiện trên phạm vi cả nước từ năm học 2002-2003, các tác giả đã thiết kế một số bảng số liệu để trống nhằm hướng dẫn học sinh tiến hành các thí nghiệm; xây dựng hệ thống bài tập đa dạng về hình thức (tự luận, trắc nghiệm, điền khuyết, nối đôi) nhằm rèn luyện cho học sinh các thao tác tư duy phù hợp với từng nội dung kiến thức, hướng dẫn học sinh tự học, đồng thời giúp học sinh làm quen với các dạng bài tập khác nhau trong kiểm tra, đánh giá theo xu thế chung của các nước trên thế giới.
Ảnh minh họa. Hải Nam.
Khi thay sách giáo khoa từ năm học 2002-2003, Bộ GD-ĐT đã tập huấn giáo viên về việc sử dụng sách giáo khoa để tổ chức hoạt động học của học sinh theo phương pháp dạy học tích cực.
Cụ thể: Đối với các bài có thí nghiệm, học sinh cần được tổ chức tiến hành theo nhóm (hiện nay cơ số bộ thí nghiệm thực hành theo danh mục thiết bị dạy học tối thiếu là 6 bộ thí nghiệm/bài thực hành) và ghi số liệu vào bảng trong Phiếu học tập (lập theo mẫu trong sách giáo khoa) để tính toán, phân tích, rút ra kết luận. Như vậy, học sinh không cần ghi số liệu thí nghiệm vào bảng trong sách giáo khoa.
Đối với các dạng bài tập trắc nghiệm, điền khuyết, nối đôi, đánh dấu, học sinh phải ghi vào vở phương án trả lời (dự kiến), kèm theo lời giải thích để trình bày, thảo luận trên lớp, không ghi trực tiếp vào sách giáo khoa. Vì sách giáo khoa được sử dụng đang trong quá trình học sinh học tập để thu nhận kiến thức mới nên các bài tập được đưa ra với vai trò là "tình huống" để học sinh "dự đoán". Dự đoán này của học sinh chưa chắc chắn đúng, thậm chí phần nhiều là chưa đúng, học sinh trong lớp có nhiều phương án lựa chọn khác nhau (nếu như "tình huống" hay) để tạo "mâu thuẫn nhận thức" trong quá trình dạy học.
Vì lí do đó nên trong quá trình dạy học, giáo viên cần sử dụng các dạng bài tập đó làm "tình huống học tập" để hướng dẫn học sinh ghi vào vở "dự kiến phương án trả lời và giải thích lí do lựa chọn" để trình bày, thảo luận, bảo vệ phương án đúng. Như vậy mới thực hiện đúng tinh thần của phương pháp dạy học tích cực mà sách giáo khoa hướng tới. Nếu trong dạy học giáo viên cho học sinh trả lời bằng cách viết, vẽ trực tiếp vào sách giáo khoa rồi đánh giá kết quả là "đúng hay sai" thì hiệu quả hoạt động dạy học không cao, hạn chế trong việc phát triển phẩm chất, năng lực học sinh.
Để quán triệt việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực và hạn chế viết vào sách giáo khoa trong quá trình thực hiện các hoạt động học, Bộ GD-ĐT đã yêu cầu giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa, nhắc nhở học sinh có ý thức giữ gìn, không được viết, vẽ vào sách để sử dụng sách giáo khoa được lâu bền. Tuy nhiên, việc sử dụng lại sách giáo khoa hiện mới đạt khoảng 35%.
Thực hiện Nghị quyết số 40/2000/QH10 ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, Chính phủ đã giao cho Bộ GD-ĐT xây dựng chương trình, tổ chức biên soạn sách giáo khoa để thực hiện trên phạm vi cả nước từ năm học 2002-2003.
Để tổ chức biên soạn bộ sách giáo khoa, Bộ GD-ĐT ban hành Quyết định thành lập đội ngũ tác giả và tổ chức biên soạn sách giáo khoa; Quyết định thành lập Hội đồng thẩm định sách giáo khoa và tổ chức thẩm định sách giáo khoa các môn học; Giao cho Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam tổ chức bản thảo, biên tập, thiết kế-minh họa, đăng kí xuất bản, in và phát hành sách giáo khoa.
Chiết khấu bán hàng (phí phát hành) dành cho các Công ty Sách-TBTH, các đối tác phát hành là 20% (đối tác Chiến lược) và 18% (đối tác Phát hành). Ảnh Hải Nam.
Từ đó đến nay, việc in sách giáo khoa do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam tổ chức thực hiện thông qua hình thức đấu thầu rộng rãi để lựa chọn các nhà in có đủ năng lực để bảo đảm chất lượng, tiến độ, giá thành hợp lí.
Về việc chiết khấu phát hành sách giáo khoa, theo báo cáo của Nhà xuất bản Việt Nam, việc phát hành sách giáo khoa thông qua hệ thống các Công ty Sách-Thiết bị trường học, các đối tác phát hành thuộc các tỉnh, thành trong cả nước. Toàn bộ các chi phí in ấn và phát hành sách giáo khoa, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam phải tự hạch toán, tự cân đối; hoàn toàn không có trợ giá hoặc hỗ trợ từ ngân sách nhà nước.
Chiết khấu bán hàng (phí phát hành) dành cho các Công ty Sách-TBTH, các đối tác phát hành là 20% (đối tác Chiến lược) và 18% (đối tác Phát hành). Phần phí này ngoài việc các đối tác dùng để chiết khấu lại cho các đại lí cấp dưới thì còn chi trả cho việc thực hiện các công tác tiếp thị, khuyến mại giảm giá, kho bãi, bao bì, vận chuyển (tới đại lí, nhà trường), bù hao (rách, hỏng do vận chuyển), bảo hiểm hàng hóa; chi phí nhân công, chi phí vốn, chi phí quản lí... thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước và đảm bảo lợi nhuận của doanh nghiệp.
Đối với các siêu thị, cửa hàng bán lẻ, phần phí phát hành này được dùng để chi trả cho chi phí mặt bằng (thuê địa điểm), chi phí vận hành (điện, nước), khấu hao, bao bì, chi phí nhân công (tiền lương bảo hiểm), chi phí vốn, thực hiện các nghĩa vụ thuế và lợi nhuận còn lại.
Để giảm chi phí vận chuyển, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam chia thị trường phát hành thành 4 khu vực và giao cho các đơn vị Công ty Sách - thiết bị giáo dục miền (Bắc, Trung, Nam, Cửu Long) làm đầu mối tập kết, cung ứng sách giáo khoa đáp ứng nhu cầu tại từng khu vực.
Mức chiết khấu bán hàng dành cho các đơn vị này là 5%. Phần phí phát hành để các đơn vị đầu mối này phải thực hiện các phần việc sau: Đôn đốc, điều phối nhà in nhập kho đáp ứng tiến độ phát hành; Tổng hợp kế hoạch đặt và cung ứng hàng hóa; KCS kiểm tra hàng nhập kho... Chi trả các chi phí thuê và vận hành kho bãi, bảo hiểm hàng hóa, bao bì, vận chuyển sách tới kho của đối tác, hao hụt (rách, hỏng do vận chuyển), chi phí hàng tồn kho, nhân công bốc xếp, chi phí quản lí, chi phí vốn vay ngân hàng, chi phí tập huấn - hội thảo, tiếp thị, tổ chức hội nghị khách hàng, các chiến dịch khuyến mại... thực hiện công tác xã hội (biếu, tặng sách)... thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Theo đó, Bộ GD-ĐT cho rằng mức chiết khấu (phí phát hành) đối với sách giáo khoa hiện nay (18-20%) là ở mức rất thấp so với mặt bằng chiết khấu đối với mặt hàng sách nói chung của các nhà xuất bản (35% - 40%).
Hơn nữa, giá sách giáo khoa hiện ở mức thấp, chỉ bằng (30 - 40%) đối với giá của các loại sách khác (có cùng số trang) nên giá trị thu được sau khi phát hành sách giáo khoa càng nhỏ nên các đối tác phát hành không mặn mà với việc phát hành sách giáo khoa do phần hoa hồng thu được không đảm bảo bù đắp đủ các chi phí lưu thông, bán hàng.