Án lệ và sự áp dụng (kỳ 1)

Luật sư Nguyễn Ngọc Bích, Đoàn Luật sư TP Hồ Chí Minh| 15/06/2014 21:24
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Án lệ là quyết định chung thẩm của một Tòa án, thường là cấp phúc thẩm, trong đó, các Thẩm phán tuyên án dựa trên sự giải thích của mình về một điều luật được dùng làm cơ sở pháp lý cho vụ án...

Nhưng điều luật đó không rõ ràng, hay không dự liệu một hoàn cảnh mới phát sinh nằm trong vụ án này. Bản án đã chung thẩm tức là các bên trong vụ tranh chấp đã nhìn nhận. Sự giải thích của Tòa thường là mới và có tính tiên phong; cho nên về sau, nó được các Thẩm phán khác dẫn ra, hay tham chiếu vào khi họ xét xử một vụ án có cùng một cơ sở pháp lý. Chỉ khi nào bản án được dẫn chiếu thì nó mới trở thành án lệ. 

 

Kỳ 1: Sự hình thành và sử dụng án lệ

 

Từ án lệ được các luật gia ở Sài Gòn ngày xưa dịch ra từ chữ “jurisprudence” trong tiếng Pháp. Ở đó, nó được định nghĩa là “một tập hợp về các quyết định của các Tòa án, về các giải pháp được đưa ra cho các vấn đề pháp lý bị tranh cãi”. Trong tiếng Anh, án lệ là “precedent”. Vì hiện tại, ta không có án lệ, nên có thể có độc giả chưa hiểu hết nó như thế nào, tôi xin đưa ra một ví dụ:

 

Một tài xế xe tải ngủ gật và đánh võng trên đường. Hàng trăm người dân tham gia giao thông phải dừng hoặc vứt lại phương tiện giao thông để tìm chỗ tránh an toàn. Đúng vào thời điểm trên, tổ công tác của trung tá, đội trưởng một đội cảnh sát giao thông X đang tuần tra và phát hiện vụ việc. Vị trung tá đã lao xe lên phía trước và dùng loa mở hết công suất gọi, đánh thức lái xe dậy, đồng thời hú còi cảnh báo cho những người tham gia giao thông được biết. Đúng lúc này, nhờ tiếng loa gọi của cảnh sát, tài xế đã choàng tỉnh và kịp phanh lại. Những người tham gia giao thông đang dừng đèn đỏ ở ngã ba bị một phen hoảng sợ; tuy nhiên, có một người chạy không kịp và bị thương nặng. Tại Đội cảnh sát giao thông, lái xe khai là TVL. Trong lời khai của mình, L. cho biết do mấy hôm bốc dỡ và chạy xe nên thiếu ngủ. Trước khi ngủ, chân của lái xe vẫn nhấn vào ga, hai tay ôm vô lăng. Do đó, chiếc xe dù chạy nhưng lái xe hoàn toàn điều khiển xe trong tình trạng vô thức.

 

Giả sử, vụ này được đưa ra xét xử thì Tòa sẽ phải quyết định là TVL làm bị thương người khác trong trường hợp nêu trên, có phạm tội hay không? Nếu có thì phạm tội gì? Trong vụ này có hai sự kiện: 1. Ngủ gật khi lái xe; 2. Gây tai nạn. Câu hỏi pháp lý đặt ra là một người có đầy đủ năng lực, chủ thể của pháp luật hình sự, đang ngủ, gây ra thiệt hại, vậy người đó có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Theo pháp luật hình sự, một người sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, một trong số đó là lỗi. Được xem là có lỗi khi có đủ hai điều kiện: (a). Đạt độ tuổi theo quy định Bộ luật Hình sự; (b). Không mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi. Trường hợp ngủ gật khi lái xe thì có thể coi là mộng du, hay mắc hội chứng parasomnia (một chứng rối loạn thần kinh trong khi ngủ). Và, theo y học là người ấy ở tình trạng vô thức trong khi đang ngủ. Như vậy, hành vi vô thức là hành vi họ không biết, không nhận thức được khi đang thực hiện.

 

Tham khảo pháp luật nước ngoài, những người thực sự mắc bệnh mộng du thì không phải chịu trách nhiệm pháp lý. Xét như thế có nghĩa, TVL không có lỗi và không phải chịu trách nhiệm hình sự.

 

Án lệ và sự áp dụng (kỳ 1)

HĐXX một vụ án hình sự (Ảnh minh họa)

 

Tuy nhiên, lại có ý kiến khác. Điều 202 BLHS (tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ) quy định về tội phạm hình thức. Khi có người bị thương tức là có hậu quả, hành vi phạm tội có thể là hành vi đánh võng trên đường, hoặc chạy quá tốc độ, hoặc không nhường đường cho người đi bộ… Đấy là những hành vi biểu hiện ra bên ngoài đối với tội phạm quy định tại Điều 202. Còn trạng thái "ngủ" của TVL mà được gọi là "vô thức" chỉ được xem là căn cứ gỡ tội khi có kết quả giám định tâm thần. Tra cứu Luật Giao thông đường bộ (LGTĐB) thì bị cáo không vi phạm Điều 65 của Luật ấy (thời gian làm việc của người lái ôtô); còn nếu nói bị cáo đã vi phạm điều cấm ghi ở Điều 8.23 của Luật này thì không có căn cứ (hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường bộ, hành vi khác gây nguy hiểm cho người và phương tiện tham gia giao thông đường bộ). Bởi lẽ, nếu cho rằng ngủ gật là một “hành vi khác, gây nguy hiểm” là không đúng. Hành vi khác mà luật muốn nói đến phải là những hành vi tuy luật không nêu rõ, nhưng chủ thể của nó phải ý thức được, chứ không phải khi ngủ, tức là vô thức.

 

Xem xét các luận điểm trên, Thẩm phán thấy tội ngủ gật khi lái xe khiến gây tai nạn thì luật chưa quy định. Đây là khó khăn của Thẩm phán. Nghiên cứu sâu LGTĐB, Thẩm phán thấy là người gây tại nạn giao thông vi phạm quy định về trật tự an toàn giao thông đường bộ, hay gặp phải sự cố bất ngờ thì: Tai nạn giao thông phải gây thiệt hại nhất định và lỗi trong tai nạn giao thông bao gồm cả lỗi cố ý và vô ý. Đứng trên quyền lợi của nạn nhân và sự công bằng, Thẩm phán thấy, dù nguyên nhân gì đi nữa (ngủ gật, mất thắng, tránh người đi đường, đường trơn trượt…) dẫn đến tai nạn như xe của TVL đã làm, khiến  người khác bị thương, tức là lái xe có lỗi. Vậy, hành vi ngủ gật khi lái xe có thể xếp vào “hành vi khác, gây nguy hiểm cho người và phương tiện tham gia giao thông đường bộ”. 

 

Khi kết luận như thế và tuyên án TVL thì Thẩm phán đã giải thích Điều 8.23 của LGTĐB để áp dụng nó cho vi phạm ngủ gật khi lái xe. Và, ông đã giải thích “hành vi khác” trong điều đó bao gồm  hành vi ngủ gật. Bản án trở thành chung thẩm. Đến đây, nó chỉ là một bản án. Tất nhiên, Thẩm phán sẽ phải viết bản án, trong đó có đề cập các quan điểm pháp lý khác nhau và biện minh cho quyết định của mình. Khi giải thích luật và tuyên án như thế, Thẩm phán độc lập xét xử và ông ta giải quyết được vụ tranh chấp ngay, mà không chờ phải có hướng dẫn.  Giả sử, bản án chung thẩm do một Tòa phúc thẩm tuyên và sau này có một hay vài Tòa khác dẫn chiếu nó cho vụ án của họ thì bản án chung thẩm ở trên trở thành án lệ. Và, án lệ được hình thành, tồn tại như thế.

 

Ở các nước phát triển như Anh, Pháp, án lệ đã có từ lâu. Ở Anh, tức là hệ thống thông luật, nó xuất hiện từ khoảng thế kỷ 12 và đã tạo nên “precedent”. Ở Pháp, án lệ được ấn định trong Bộ Dân luật từ năm 1804. Không đi sâu vào các nguồn gốc này cho mục đích của ta, ở đây, tôi chỉ xin nói vắn tắt như thế này: Trong hệ thống thông luật (HTTL), bằng các bản án đã tuyên, Tòa án tạo ra luật pháp; bởi thế, “án lệ” (precedent) có tính bắt buộc. Các vụ sau phải được quyết định theo các vụ trước khi có cùng tình huống. Ở hệ thống dân luật (HTDL), Tòa án không làm ra luật. Việc đó là của các cơ quan lập pháp. Tòa phải dựa trên các điều luật nhất định để tuyên án. Tuy nhiên, khi có một điều luật được áp dụng mà không rõ nghĩa, hay không tiên liệu được tình huống mới phát sinh trong vụ án thì Tòa án có thể giải thích điều luật kia để làm cho rõ, hay áp dụng cho tình huống mình xử lý. Sự giải thích kia tạo nên án lệ, khi quyết định của bản án được các Tòa khác áp dụng sau này. Về nguyên tắc, Tòa cấp dưới không bị buộc phải áp dụng án lệ của Tòa cấp trên; nhưng nếu không theo án lệ liên quan đã có, mà bản án bị kháng cáo lên Tòa cấp trên thì nơi sau sẽ hủy bản án vì điều luật liên quan đã được giải thích rồi. Cho nên, vì sự khôn ngoan, Thẩm phán Tòa cấp dưới sẽ áp dụng án lệ. Do vậy, sự bó buộc của án lệ trong HTDL có tính chất tinh thần.

 

(Còn nữa)

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Án lệ và sự áp dụng (kỳ 1)