Trên chuyến xe lên Đồn biên phòng cửa khẩu Cầu Treo vào một ngày đầu thu, mỗi thành viên trong đoàn của chúng tôi đều theo đuổi những suy nghĩ của riêng mình...
Nếu như với tôi, đó là sự háo hức được đến thăm một miền biên cương phía Tây của Tổ quốc thì trái lại, trong niềm suy tư của nhà văn Trần Hữu Tòng, chuyến đi này là sự trở về với vùng đất đã lưu giữ biết bao kỷ niệm, biết bao hoài bão của một thời trai trẻ.
Nhà văn của miền biên ải
Trần Hữu Tòng sinh năm 1938 ở huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Tháng 4/1954, ông nhập ngũ khi mới vừa tròn 16 tuổi và là một trong những người đầu tiên xẻ núi, mở rừng xây dựng Đồn biên phòng Cầu Treo. Dẫu sau này, ông có hơn 15 năm làm phóng viên Báo Công an nhân dân vũ trang, 20 năm là phóng viên báo Quân đội nhân dân, 5 năm đảm nhận chức vụ Cục trưởng Cục Văn hóa Thông tin cơ sở - Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, được đi đến nhiều miền đất của Tổ quốc, thì cái tên Nước Sốt - Cầu Treo vẫn là một vùng ký ức sâu đậm trong cuộc đời. Cũng chính vì xuất thân từ một người lính biên phòng, tác phẩm đầu tiên cũng được ra đời nơi biên viễn, thế nên chủ đề về biên giới và hình tượng người lính biên phòng cứ bền bỉ gắn với những trang viết của Trần Hữu Tòng trong suốt khoảng thời gian dài bằng cả đời người.
Trở lại Cầu Treo, là một trong những người lính biên phòng đầu tiên cắm chốt ở đất này, nên nhà văn Trần Hữu Tòng được các cán bộ chiến sỹ nơi đây vô cùng yêu quí và kính trọng. Bài thơ ông viết tặng đồn năm nào được anh em đọc nhiều lần thành thuộc. Trong buổi sinh hoạt văn hóa hôm ấy, một cán bộ của đồn đã lên xin được đọc cho mọi người cùng nghe. Chất giọng miền Trung mềm mại, giàu ngữ điệu đã khiến bài thơ càng có thêm sức lan toả. Rồi “người lính già tóc bạc, kể mãi chuyện biên cương", Trần Hữu Tòng đã cùng với anh em ôn lại truyền thống anh hùng của đồn từ 50 năm về trước. Có những điều họ đã biết, cũng có những điều chưa từng hay nhưng qua câu chuyện của ông, tất cả chợt trở nên tươi mới. Họ hiểu thêm rằng, mỗi ngọn núi, con sông trên vùng đất mà họ đang đứng chân đều gắn với bao chiến công của các thế hệ cha anh.
Nhà văn Trần Hữu Tòng
Mỗi lần về thăm lại mảnh đất giáp biên này, Trần Hữu Tòng không khỏi bùi ngùi trước mái đầu bạc trắng của những người mẹ, người chị từng nhịn đói dành gạo nuôi bộ đội. Giờ đây, người còn kẻ mất, nhưng kỷ niệm thì tình quân dân cá nước mãi mãi còn đọng lại. Trái với cái tên biểu hiện của sự giàu sang, quý giá, bản Kim Cương cũng còn nhiều khó khăn như tất cả những bản làng vùng biên viễn xa xôi khác. Được chứng kiến sự ấm no đang đến với vùng đất và những con người mà ông yêu quý, hẳn Trần Hữu Tòng cũng phần nào thấy lòng mình thanh thản.
Năm 1959, từ đồn Công an nhân dân vũ trang Cầu Treo, Trần Hữu Tòng được điều về Cục chính trị Công an nhân dân vũ trang và trở thành một trong những thành viên sáng lập Báo Công an nhân dân vũ trang - nay là Báo Biên phòng. Con đường văn chương đến với ông một cách thật tình cờ. Năm 1963, Cục Chính trị yêu cầu ông lên Đồn Biên phòng Leng Su Sìn, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu cũ, nay thuộc tỉnh Điện Biên - nơi ngã ba biên giới Việt - Trung - Lào, một tiếng gà gáy ba nước cùng nghe để viết về tấm gương của liệt sỹ Trần Văn Thọ.
Ngày đó, anh Thọ đã kiên trì bám địa bàn, bám dân; cùng ăn, cùng ở, cùng làm với đồng bào. Anh dành dụm từng đồng từ khoản lương ít ỏi của mình rồi đi bộ leo núi suốt hai tháng trời về xuôi gùi cái cày và hạt giống lúa nước lên dạy bà con làm ruộng, kêu gọi bà con định cư trồng lúa nước, mang lại một cuộc sống mới cho bản làng nơi đây. Do công tác ở vùng rừng thiêng nước độc, Trần Văn Thọ bị sốt rét ác tính và hy sinh, khi chưa kịp có một tổ ấm cho riêng mình.
Chuyến đi thực tế gian khó đó, cơn sốt rét ác tính đã suýt cướp đi sinh mạng của ông. Trong suốt ba tháng ở cùng đồng bào, vừa chống chọi với bệnh tật, ông vừa thu thập tài liệu để viết thành công tác phẩm “Trung với đảng, hiếu với dân”, được in khổ nhỏ để có thể dễ dàng bỏ trong ba lô của những người lính trên đường ra mặt trận, góp phần không nhỏ để liệt sỹ Trần Văn Thọ được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. “Anh hùng như Nguyễn Văn Trỗi. Dũng cảm như Nguyễn Viết Xuân. Tận tụy với dân như Trần Văn Thọ” - khẩu hiệu ấy đã luôn vang lên trong suốt hành trình chống Mỹ của những người chiến sỹ.
Cánh chim xanh không mỏi
Khiêm tốn một cách chân thành, Trần Hữu Tòng tự nhận mình không phải là người có năng khiếu văn chương bẩm sinh. Ông trở thành nhà văn của vùng biên ải vì ông yêu văn chương và muốn viết về cuộc sống với những hy sinh thầm lặng của đồng đội mình và sự kiên gan giữ đất, giữ bản làng của cộng đồng các dân tộc nơi biên giới - điều mà không phải ai cũng biết, cũng nhìn thấy. Khi đất nước thanh bình, mọi người được đoàn viên trong hạnh phúc gia đình thì vẫn còn những người lính phải lìa xa quê hương lên đường canh giữ nơi tiền đồn phên dậu. Họ là lính biên phòng.
Mọi người vẫn hiểu điều đó, nhưng ít ai biết rằng giữa cái lạnh cắt da cắt thịt, người lính vẫn vững vàng bước tuần tra qua đèo dốc trập trùng, lội qua suối sâu gập ghềnh đá sỏi mà lòng vẫn tràn ngập tinh thần lạc quan, yêu đời. Khi cánh hoa mận trắng ngần khoe sắc, nhà nhà vui đón Xuân về thì trên suốt dọc dài biên cương Tổ quốc, những người lính trẻ chỉ biết nén lại nỗi nhớ nhà để ở lại với đồn, với đồng đội và bà con dân bản. Rồi những trận đối đầu với kẻ thù để bảo vệ từng tấc đất cha ông, bảo vệ sự bình yên trên biên giới. Những hiểm nguy luôn rình rập các anh từ bao kẻ thủ ác hòng gây rối vùng biên và buôn hàng quốc cấm...v.v.
Là người lính, nhà văn Trần Hữu Tòng hiểu điều đó hơn ai hết. Mỗi khi có dịp thuận lợi là ông lại lên biên giới để tìm cảm hứng sáng tác và lấy thêm tư liệu để viết. Đường lên biên giới còn quá đỗi gian nan tưởng như sẽ là thử thách đối với nhà văn đã đầy nặng tuổi tác này, ấy vậy mà không có gì có thể nặng hơn tình đồng đội, nghĩa đồng bào. Đặc tính ấy của ông đã khiến không ít người nể phục.
Không ngại khó, không sợ khổ, ông vẫn có mặt ở những nơi gian truân nhất, thâm nhập hồ sơ tội phạm, lấy tư liệu về các chuyên án lớn của lực lượng biên phòng để viết truyện ngắn, truyện ký hoặc các ký sự dài kỳ. Có lúc, ông lặng lẽ dõi theo bước tuần tra của người lính hoặc trìu mến trò chuyện cùng anh em, ghi lại tâm tư, tình cảm của họ để xây dựng nhân vật trong tác phẩm của mình. Lúc nào người ta cũng thấy ông tỷ mẩn ghi chép, chụp ảnh từng cột mốc, từng phiến đá, hàng cây và đặc biệt là gương mặt của những người lính trẻ. Từ những ghi chép điền dã ấy, người lính biên phòng đã bước vào các tác phẩm của ông và trở thành những hình tượng đẹp của lòng quả cảm, đức hy sinh.
Một tập truyện ký của nhà văn Trần Hữu Tòng
Không chỉ gắn bó với những người lính được ví như cánh chim xanh trên bầu trời biên giới, nhà văn Trần Hữu Tòng còn luôn gần gũi với đồng bào vùng biên ải. Nếu bếp lửa bập bùng dưới nếp nhà sàn mộc mạc đã cho ông biết bao câu chuyện kỳ thú của núi rừng thì nét duyên thầm của người con gái Thái đằm thắm bên sắc thổ cẩm rực rỡ lại gợi cho ông biết dự cảm thú vị. Những câu chuyện giản dị, chân thành như cây rừng của người dân vùng biên không chỉ là nguồn cảm hứng cho các sáng tác của ông mà còn là điểm nhấn quan trọng, tạo sự khác biệt và đa dạng về văn hóa trong văn của Trần Hữu Tòng.
Dồi dào bút lực
Trong các tác phẩm văn học ở nhiều thể tài, thể loại của nhà văn Trần Hữu Tòng, giá trị tư tưởng của tác phẩm và phương pháp xây dựng các chi tiết cụ thể được đánh giá là thế mạnh của ông. Tất nhiên, để có được điều đó đòi hỏi người nghệ sỹ phải có những trải nghiệm thực tế và sự tâm huyết với nghề văn mà tiêu biểu cho nhận định đó là truyện ngắn “Rừng Thiêng”, một tác phẩm độc đáo đã được trao giải Nhất trong cuộc vận động sáng tác về đề tài Biên phòng năm 2009.
Trong phòng văn của mình, những hòn đá, bức tượng mộc mạc, thô nhám được nhà văn Trần Hữu Tòng coi là những tài sản quý bởi chúng là kỷ vật do bạn bè, đồng đội tặng được ông mang về từ biên giới. Ở tuổi ngoài 70, cái tuổi xưa nay hiếm của đời người, ông vẫn miệt mài sáng tác. Nếu biên giới thăm thẳm xa là nguồn cảm hứng cho văn ông thì gia đình chính là dòng suối êm đềm nuôi dưỡng cho nguồn cảm hứng ấy trở thành tác phẩm. Sự chia sẻ, đồng cảm của người bạn đời dịu dàng, nhân hậu phần nào đã chắp cánh thêm cho sự nghiệp cầm bút của nhà văn suốt bốn chục năm qua. Lúc này đây, khi tóc bạc da mồi, họ ngồi bên nhau, cùng lặng lẽ tìm về kỷ niệm.
Đến nay, nhà văn Trần Hữu Tòng đã xuất bản gần 30 tác phẩm gồm tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn mà không có tác phẩm nào vắng bóng người chiến sĩ biên phòng. Với hàng chục tác phẩm về đề tài biên giới và người chiến sĩ biên phòng như: "Ngôi sao biên cương", "Dấu vết để lại", "Tín hiệu bình yên", "Bên dòng Păng Pơi", "Cơn lốc rừng thông", "Bầy cọp núi", "Cánh rừng và hai vầng trăng", "Bếp lửa đêm rừng", "Phiên gác trăng tà", “Sau màn sương lạnh”, “Bóng núi” cùng nhiều giải thưởng văn học có giá trị trong hành trình sáng tác của mình, có thể nói rằng với nhà văn Trần Hữu Tòng ký ức của một thời trai trẻ, về những miền đất xa xôi nơi biên ải, nơi những người lính trẻ như ông thuở nào đang làm nhiệm vụ canh giữ biên cương cho Tổ quốc, chắc hẳn vẫn luôn tươi mới và là nguồn cảm hứng dồi dào cho ngòi bút của ông.
Trước khi rời vùng đất Nước Sốt - Cầu Treo, chúng tôi đã chứng kiến một hình ảnh thật đẹp và ấm tình đồng đội. Người lính già Trần Hữu Tòng đã đứng rất lâu tại nơi cách đây 55 năm ông đã từng đứng gác. Để nhìn những người lính trẻ đang vào phiên gác mới với biết bao tin yêu và hy vọng: “Người đi ngàn dặm đường xa. Mang theo phiên gác trăng tà trong mây. 55 năm đã về đây. Chào anh lính trẻ gác thay phiên mình” (thơ Trần Hữu Tòng).