Nguyên Trung úy CSGT tham ô tài sản lĩnh án

Hoàng Thiên Lý| 26/05/2017 13:56
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Ngày 26/5, TAND tỉnh Khánh Hòa đã tuyên phạt bị cáo Lê Thị Minh Trang (SN 1984, trú 120/39 Nguyễn Thiện Thuật, Nha Trang, nguyên Trung úy phòng PC67 Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Khánh Hòa) 3 năm tù về tội tham ô tài sản.

Ngoài ra, Tòa cũng tuyên buộc bị cáo phải bồi thường cho Nhà nước số tiền 30.200.000 đồng.

Trước đó, trong phần luận tội, Viện KSND tỉnh Khánh Hòa cáo buộc bị cáo Trang, công tác tại Đội đăng ký, quản lý phương tiện thuộc Phòng PC67 Công an tỉnh Khánh Hòa được giao nhiệm vụ thu tiền phí, lệ phí đăng ký biển số xe mô tô, đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao, chiếm đoạt của ngân sách nhà nước số tiền 2.069.000.000 đồng và đề nghị xử phạt Trang từ 15 đến 16 năm tù (theo khoản 4 điều 278 BLHS) và bồi thường cho Nhà nước số tiền trên.

Tuy nhiên, theo HĐXX, tại phiên tòa bị cáo Trang chỉ thừa nhận hành vi chiếm đoạt tài sản là số tiền thu lệ phí đăng ký xe môtô của 151 trường hợp chủ phương tiện đăng ký với số tiền chiếm đoạt là 30.200.000 đồng, tức 151 xe môtô/ 9.473 xe môtô, số xe còn lại 9.322 xe bị cáo không thừa nhận hành vi đã chiếm đoạt.

Nguyên Trung úy CSGT tham ô tài sản lĩnh án

Bị cáo Lê Thị Minh Trang tại phiên tòa

Bị cáo trình bày, việc bị cáo đánh dấu “x” lên đầu góc các cuộn biên lai thu phí 200.000 đồng mục đích là để phân biệt với các cuộn biên lai thu phí khác, loại 400.000 đồng và 800.000 đồng.

Mặt khác, việc bị cáo ghi biên lai là dựa trên số tiền mà cán bộ ghi giấy hẹn chuyển qua cho bị cáo ghi biên lai nên số tiền như thế nào bị cáo ghi như vậy, chỉ có 151 biên lai mà cơ quan điều tra thu được bi cáo có hành vi gian dối ghi sai lệch số tiền thu phí để chiếm đoạt tiền, nhưng việc ghi sai lệch này là cũng theo sự chỉ đạo của lãnh đạo phòng, cụ thể là theo lệnh của bà Phạm Thị Ngọc Khánh, thực tế số tiền ghi sai lệch bị cáo đã đưa cho chị Khánh bản thân bị cáo không sử dụng.

Qua lời trình bày của bị cáo và người bào chữa cho bị cáo, HĐXX nhận định, đây là vụ án tham ô tài sản nên một trong những dấu hiệu của hành vi khách quan của tội phạm phải có yếu tố chiếm đoạt tài sản và thiệt hại về tài sản. Việc xác định có thiệt hại thực tế hay không phải dựa vào kết luận giám định tài chính của cơ quan chuyên môn.

Trong vụ án này, kết luận giám định xác định bị cáo có hành vi thu thiếu số tiền thu phí, lệ phí đối với 9.473 xe môtô, tương ứng với số tiền là 2.069.000.000 đồng. HĐXX thấy rằng trong tổng số 9.473 xe môtô đăng ký đã thu phí, lệ phí thì có 151 xe đăng ký, cơ quan CSĐT thu giữ được biên lai thu lệ phí liên 2 màu đỏ.

Qua kết quả điều tra và xét hỏi tại phiên tòa đã chứng minh được trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu phí, lệ phí đăng ký xe mô tô bị cáo Trang đã dùng thủ đoạn gian dối, cố ý viết sai lệch dấu cắt lên biên lai thu phí, lệ phí để nộp vào ngân sách ít hơn số tiền mà Trang thực thu của 151 chủ phương tiện.

Cụ thể là số tiền Trang thu thực tế của mỗi chủ phương tiện thể hiện trên liên 2 của biên lai thu phí, lệ phí giao cho chủ phương tiện là 400.000 đồng, nhưng trên liên 1 và liên 3 của biên lai Trang ghi số tiền thu lệ phí của chủ phương tiện là 200.000 đồng và nộp vào ngân sách Nhà nước theo số tiền ghi trên liên 1 và liên 3, thông qua đó Trang đã chiếm đoạt số tiền chênh lệch là 200.000 đồng/1 biên lai thu phí, lệ phí đăng ký xe mô tô.

Số tiền này Trang khai đã đưa hết cho bà Phạm Thị Ngọc Khánh, nguyên Đội phó đội đăng ký, quản lý phương tiện nhưng bà Khánh đã không thừa nhận lời khai của Trang về việc Trang đã giao toàn bộ số tiền chênh lệch cho bà. Bản thân Trang cũng không có tài liệu gì để chứng minh, cơ quan điều tra cũng không thu thập được chứng cứ để chứng minh. Vì vậy, bị cáo Trang phải chịu trách nhiệm đối với số tiền đã chiếm đoạt này.

Lời khai nhận tội của bị cáo đối với 151 biên lai thu lệ phí thu được hoàn toàn phù hợp với vật chứng thu giữ được thể hiện trong hồ sơ, phù hợp với kết luận của giám định tài chính đã đủ cơ sở để chứng minh bị cáo Trang đã chiếm đoạt số tiền thu phí, lệ phí là 30.200.000 đồng.

Đối với 9.322 trường hợp xe còn lại ngoài 151 trường hợp bị cáo thừa nhận, HĐXX xét thấy trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trang có thay đổi lời khai ban đầu và cho rằng việc bị cáo thu thiếu không nhằm mục đích chiếm đoạt, bị cáo chỉ căn cứ số tiền trên giấy hẹn để thu tiền của chủ phương tiện do cán bộ viết giấy hẹn ghi sai số tiền phải thu nên bị cáo đã thu sai theo giấy hẹn.

Quá trình điều tra và thu thập chứng cứ cho thấy đối với 9.322 xe còn lại, cáo trạng quy kết bị cáo có hành vi chiếm đoạt số tiền thu phí, lệ phí đối với số xe này chủ yếu dựa vào lời khai ban đầu của bị cáo trong quá trình điều tra và kết quả giám định, trên thực tế cơ quan điều tra đã không thu thập được đầy đủ các tài liệu chứng cứ khác để chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, bởi lẽ việc chưa thu thập được liên 2 thu tiền phí, lệ phí, các giấy hẹn có ghi số tiền phải nộp của 9.322 xe máy này, nên không thể đối chiếu với liên 1 và liên 3 của biên lai thu phí để đảm bảo cơ sở cho việc giám định và xác định hành vi khách quan của bị cáo có chiếm đoạt số tiền thu phí, lệ phí đối với số xe này hay không.

Cơ quan điều tra chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo nhưng chỉ sử dụng lời khai nhận của bị cáo làm chứng cứ duy nhất kết tội bị cáo về hành vi tham ô tài sản với số xe nói trên là chưa đủ cơ sở pháp lý và chưa phù hợp với quy định tại điều 72 Bộ luật TTHS. Như vậy chỉ có căn cứ kết tội bị cáo tham ô tài sản với số tiền chiếm đoạt là 30.200.000 đồng theo khoản 1 điều 278 BLHS. Vì thế chỉ chấp nhận một phần cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát đối với hành vi phạm tội của bị cáo là có căn cứ.

Ngoài ra, việc cơ quan tiến hành tố tụng không chứng minh được bị cáo có hành vi chiếm đoạt số tiền thu phí, lệ phí đối với số xe đăng ký 9.322 xe do không thu được biên lai liên 2 để đối chiếu với liên 1 và liên 3 nhưng kết quả giám định cho thấy có việc thu sai, thu thiếu nên thất thoát cho tài sản của Nhà nước thì phải xem xét trách nhiệm hình sự của những cá nhân có liên quan trong vụ án này.

Về vấn đề này, Tòa án đã nhiều lần trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để yêu cầu cơ quan điều tra làm rõ nhưng cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không thực hiện. Vì giới hạn của việc xét xử nên HĐXX không thể giải quyết trong vụ án này, vì vậy cần kiến nghị cơ quan Công an tỉnh Khánh Hòa, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa tiếp tục xem xét xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với hành vi thu thừa 35 xe gây thiệt hại cho các chủ phương tiện 7 triệu đồng, cơ quan điều tra căn cứ vào kết luận giám định xác định bị cáo Trang đã thu cao hơn mức quy định đối với mỗi chủ phương tiện là 200.000 đồng gây thiệt hại cho 35 chủ phương tiện tổng số tiền là 7 triệu đồng, tuy nhiên cáo trạng của Viện kiểm sát không kết luận về hành vi này đối với bị cáo và tại phiên tòa Viện kiểm sát đề nghị tách ra để giải quyết trong một vụ án khác nên HĐXX không xem xét trong vụ án này. 

Trước đó, vào tháng 8/2014, TAND TP Nha Trang xét xử sơ thẩm (lần 1) vụ án này, đã phạt Trang tổng cộng 14 năm tù, trong đó 3 năm tù về tội “Tham ô” 41,6 triệu đồng, 11 năm tù tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” vì quá trình ghi biên lai thu tiền cấp biển số xe môtô bị cáo đã thu thiếu, làm thất thoát của Nhà nước 2,056 tỉ đồng. Bị cáo Trang kháng cáo kêu oan tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, bị cáo cho biết đã nộp toàn bộ số tiền 2,056 tỉ đồng cho bà Khánh (lúc đó là Đội phó Đội đăng ký, quản lý phương tiện) chứ không chiếm đoạt, đồng thời xin giảm án tội “tham ô”.

Xử phúc thẩm vào ngày15/5/2015, TAND tỉnh Khánh Hòa nhận định về khoản tiền hơn 2 tỉ đồng phí, lệ phí mà Trang thu thiếu so với quy định (ngoài khoản bị cáo đã chiếm đoạt) thì kết quả thu thập chứng cứ của cấp sơ thẩm chưa chứng minh được động cơ vụ lợi của bị cáo, do đó Tòa tuyên hủy án sơ thẩm để điều tra lại. Lần này, Trang chỉ bị truy tố tội Tham ô tài sản.

Đối với hành vi “thiếu trách nhiệm” của chỉ huy đội đăng ký, quản lý phương tiện và lãnh đạo Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Khánh Hòa, cáo trạng cho hay cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra và xử lý sau.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Nguyên Trung úy CSGT tham ô tài sản lĩnh án