Vị thế của Tòa án nhân dân trong nhà nước pháp quyền

PGS. TS. Trần Văn Độ| 13/09/2016 13:00
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Nhà nước pháp quyền là thành tựu của văn minh nhân loại. Vì vậy, nhà nước pháp quyền có những nguyên lý chung của nhân loại như chủ quyền nhân dân, dân chủ, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, độc lập của Tòa án và hội nhập quốc tế…

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong nhà nước pháp quyền, vị thế của Tòa án đã được xác lập là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp.

Lần đầu tiên ở nước ta, Hiến pháp 2013 xác định rõ Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp (Điều 69), Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp (Điều 94) và TAND là cơ quan thực hiện quyền tư pháp (Điều 102). Mỗi cơ quan được Hiến pháp quy định phân công thực hiện một loại quyền lực khác nhau với chức năng minh bạch, rõ ràng. Với sự phân công chức năng minh bạch, rõ ràng đó, mỗi cơ quan có những nguyên tắc tổ chức, hoạt động đặc trưng; trong đó là cơ quan đại diện có chức năng lập pháp, Quốc hội tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc dân chủ nghị viện; với chức năng hành pháp và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, Chính phủ tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc chỉ huy phục tùng, hành chính mệnh lệnh; còn Tòa án, cơ quan tư pháp được tổ chức theo nguyên tắc độc lập…

Ngoài sự phân công, Hiến pháp cũng khẳng định yêu cầu phối hợp trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước và sự phối hợp là cần thiết để bảo đảm cho mỗi cơ quan hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Hiến pháp đã khẳng định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Với quy định này và các quy định khác có liên quan, Hiến pháp 2013 không chỉ quy định rõ, Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, TAND thực hiện quyền tư pháp, mà còn hiến định nguyên tắc kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Bằng việc quy định “TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” (khoản 1 Điều 102), Hiến pháp xác định rõ ràng, cụ thể vị trí, vai trò, chức năng của TAND trong bộ máy cơ quan nhà nước. Như vậy, Hiến pháp đã quy định rõ bằng việc thực hiện chức năng xét xử, TAND có vị trí là cơ quan thực hiện quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Vị thế của Tòa án nhân dân trong nhà nước pháp quyền

PGS.TS Trần Văn Độ, nguyên Phó Chánh án TANDTC

Chúng ta thấy rằng, tinh thần của Hiến pháp đã thể hiện rõ ràng quyền tư pháp đồng nghĩa với quyền xét xử của TAND. Quyền tư pháp, chức năng xét xử của TAND thể hiện ở chỗ: TAND là cơ quan duy nhất có quyền ra phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp pháp lý xảy ra trong xã hội. Xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài nhà nước, giải quyết các tranh chấp bằng quyền lực nhà nước đều thuộc thẩm quyền của Tòa án. Quy định của Hiến pháp là cơ sở hiến định cho việc mở rộng thẩm quyền của Tòa án trong xét xử các loại án, thể hiện xu thế tất yếu của nhà nước pháp quyền.

Quyền con người là quyền thiêng liêng, quan trọng nhất đối với con người được Hiếp pháp ghi nhận và thực hiện trực tiếp mà không cần thông qua luật định. Vì vậy, TAND là cơ quan duy nhất phán quyết những vấn đề về quyền con người (như tuyên bố một người đã chết, xác định cha, mẹ cho con, tuyên bố tước, hạn chế tự do, áp dụng các hình phạt liên quan đến quyền con người…).

Khác với việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, các hoạt động nêu trên của TAND được thực hiện theo một thủ tục tố tụng tư pháp chặt chẽ, vô tư, khách quan, tuyệt đối tuân thủ pháp luật và mang tính độc lập tuyệt đối. Bằng các quy định như trên, về thực chất, có thể hiểu tư pháp chính là xét xử; thực hiện chức năng xét xử chính là thực hiện quyền tư pháp. Hiến pháp khẳng định vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tư pháp, vị trí trọng tâm của hoạt động xét xử trong các hoạt động tư pháp.

Theo quy định của Hiến pháp, là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, TAND có kiểm soát các cơ quan khác trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp. Theo đó, phạm vi kiểm soát của Tòa án cần được thể hiện cơ bản trong các điểm sau đây:

Đối với hoạt động lập pháp, thông qua hoạt động xét xử của mình, Tòa án phải có quyền: 1/ Phán quyết tính hợp hiến của các luật, nghị quyết do Quốc hội ban hành, của các pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Cơ chế phán quyết đó có thể là bằng Tòa án Hiến pháp, Hội đồng Hiến pháp hoặc bằng một cơ chế hữu hiệu, khả thi khác phù hợp với điều kiện của mỗi quốc gia; 2/ Giải thích luật, pháp lệnh. Luật, pháp lệnh được ban hành có thể có nhiều cách hiểu khác nhau. Nhưng là cơ quan áp dụng luật để phán quyết về các vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp pháp lý, phán quyết về quyền con người được Hiến pháp ghi nhận, Tòa án phải có quyền hiểu và giải thích những nội dung chưa rõ ràng, chưa xác định đó của luật được áp dụng. Đặc trưng của việc giải thích luật của Tòa án thể hiện ở chỗ việc giải thích đó thông qua các phán quyết cụ thể có hiệu lực pháp luật (án lệ), thông qua các văn bản của cơ quan xét xử cao nhất (như Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC) và thông qua các biện pháp bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật khác.

Khi đề cập đến quyền của TAND trong kiểm soát hoạt động lập pháp, theo chúng tôi, không nên nhầm lẫn với nhiệm vụ thực hiện sáng kiến lập pháp của TANDTC. Là chủ thể có quyền sáng kiến lập pháp, TANDTC có quyền trình dự án luật, kiến nghị sửa đổi, bổ sung luật và đóng góp ý kiến cho các dự án luật mà Quốc hội thông qua.

Đối với hoạt động hành pháp, trước hết, TAND thụ lý, giải quyết các khiếu kiện hành chính, phán quyết về các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu kiện. Vì vậy, việc mở rộng thẩm quyền xét xử hành chính của TAND là xu thế tất yếu của xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. TAND phán quyết về các vi phạm pháp luật mà cơ quan hành pháp khi thực hiện chức năng thi hành pháp luật, phát hiện và truy cứu ra trước Tòa án để Tòa án phán quyết có vi phạm pháp luật hay không và biện pháp chế tài để xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật đó.

Từ góc độ này, có thể khẳng định xu thế mở rộng thẩm quyền của TAND trong phán quyết xử lý mọi vi phạm pháp luật. Cơ quan truy cứu các vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức ra trước Tòa án để phán xử phải là cơ quan hành pháp. Vì thế, không ngẫu nhiên mà Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị đặt ra vấn đề nghiên cứu chuyển Viện kiểm sát thành cơ quan Công tố thuộc Chính phủ.

Để thực hiện quyền tư pháp, Hiến pháp cũng quy định nhiệm vụ của TAND một cách cụ thể, rõ ràng. Theo khoản 3 Điều 102 Hiến pháp, TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Hiến pháp đã nhấn mạnh việc bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân là những nhiệm vụ đầu tiên của TAND, sau đó mới là nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đó là nhiệm vụ đặc trưng thể hiện cao nhất, tập trung nhất đối với cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án phải là nơi mà mọi con người, mọi công dân tìm đến lẽ phải, tìm đến sự thật. Khi quyền, lợi ích của mình bị xâm phạm hoặc bị tranh chấp, người dân tìm đến Tòa án như là tìm đến Công lý. Vì vậy, có thể nói, theo Hiến pháp mới, Tòa án là biểu tượng của Công lý và có nhiệm vụ bảo vệ công lý.

Có thể thấy, quy định về tổ chức bộ máy nhà nước nói chung và về TAND nói riêng là bước phát triển mang tính đột phá của Hiến pháp năm 2013 so với các bản Hiến pháp trước đây. TAND đã được hiến định một cách rõ ràng với vị trí là cơ quan tư pháp, có chức năng xét xử, thực hiện quyền tư pháp với nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Tuy nhiên, để hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp thực sự có hiệu lực, hiệu quả, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của TAND, hoạt động tố tụng tư pháp cũng như các thẩm quyền khác của Tòa án. Việc hoàn thiện cần được tiến hành theo các hướng chính:

Mở rộng thẩm quyền của Tòa án, giao cho TAND thẩm quyền phán quyết về mọi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân; đặc biệt là thẩm quyền xử lý, xử phạt hành chính.

Để thực hiện được nguyên tắc kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp theo khoản 3 Điều 2 của Hiến pháp, cần có các quy định cho phép TAND thực hiện việc kiểm soát các hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp. Nếu các chủ thể thực hiện quyền lập pháp, hành pháp được thực hiện quyền của mình đối với bất cứ lĩnh vực đời sống chính trị, kinh tế, xã hội nào của đất nước cũng không nên có “vùng cấm” trong việc thực hiện quyền tư pháp.

TAND cũng cần phải có sự độc lập về tổ chức và hoạt động. Độc lập không phải là điều kiện để đảm bảo thực hiện mà là thuộc tính vốn có của quyền tư pháp. Do đó, các TAND cần được tổ chức độc lập, không chỉ không phụ thuộc vào cấp hành chính mà còn không bị phụ thuộc bởi Tòa án cấp trên; việc phân cấp ngân sách cho các TAND nên giao cho Quốc hội và trong Nghị quyết cần phê chuẩn đến từng Tòa án cụ thể.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Vị thế của Tòa án nhân dân trong nhà nước pháp quyền