Một số định hướng chung, cơ bản sửa đổi, bổ sung BLTTHS, BLTTDS và Luật Tố tụng hành chính (kỳ 1)

Trương Hoà Bình - Bí thư TW Đảng, Chánh án TANDTC| 09/03/2015 13:22
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Các dự án luật này sẽ được trình Quốc hội xem xét, thông qua trong năm 2015. Đây là những đạo luật cơ bản, rất quan trọng, trực tiếp liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và TAND nói riêng...

Theo Nghị quyết của Quốc hội về điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khoá XIII, năm 2014 và Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015, Tòa án nhân dân tối cao được phân công chủ trì phối hợp với các cơ quan hữu quan chuẩn bị dự án Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi), Luật Tố tụng hành chính (sửa đổi); phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan hữu quan chuẩn bị dự án Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi).

Các dự án luật này sẽ được trình Quốc hội xem xét, thông qua trong năm 2015. Đây là những đạo luật cơ bản, rất quan trọng, trực tiếp liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và Tòa án nhân dân riêng; liên quan đến yêu cầu duy trì và bảo vệ trật tự xã hội; bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ công lý; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Vì vậy, việc xây dựng các dự án luật này phải bảo đảm tính thống nhất với các luật khác trong hệ thống pháp luật của nước ta, trong đó cần lưu ý:

I. BẢO ĐẢM YÊU CẦU CỦA VIỆC SỬA ĐỔI CÁC LUẬT TỐ TỤNG

- Thể chế hoá các chủ trương, đường lối, quan điểm về cải cách tư pháp của Đảng

Chiến lược cải cách tư pháp đã được định hướng trong các nghị quyết, văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 “Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”; Báo cáo tổng kết 8 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW và Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị, cụ thể là:

+ Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, với mục tiêu là xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao;

Một số định hướng chung, cơ bản sửa đổi, bổ sung BLTTHS, BLTTDS và Luật Tố tụng hành chính (kỳ 1)

Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình phát biểu tại buổi họp Ban soạn thảo dự án Luật Tố tụng hành chính (sửa đổi)

+ Hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, theo hướng kế thừa những ưu điểm của mô hình tố tụng thẩm vấn và tiếp thu có chọn lọc những yếu tố tiến bộ của mô hình tố tụng tranh tụng, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người; kết hợp chặt chẽ việc đổi mới thủ tục tố tụng tư pháp với việc cải cách thủ tục hành chính tư pháp phù hợp với hoạt động tư pháp;

+ Nghiên cứu về khả năng khai thác, sử dụng án lệ, tập quán (kể cả tập quán, thông lệ thương mại quốc tế) và quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp, góp phần bổ sung và hoàn thiện pháp luật;

+ Đổi mới thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý; người dân chỉ nộp đơn đến Toà án, Toà án có trách nhiệm nhận và thụ lý đơn;

+ Mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án đối với các khiếu kiện hành chính; đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Toà án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Toà án; xây dựng cơ chế bảo đảm cho mọi bản án của Toà án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành, các cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý theo phán quyết của Toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành;

+ Đổi mới việc tổ chức phiên toà xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp;

+ Tăng quyền và trách nhiệm cho Thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình;

+ Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên toà, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư;

+ Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định;

+ Từng bước hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật; khắc phục tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ;

+ Xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các hoạt động tư pháp;

+ Tiếp tục nghiên cứu làm rõ vấn đề lý luận về quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xác định rõ nội hàm và xây dựng cơ chế để Tòa án nhân dân thực hiện có hiệu quả quyền tư pháp;

+ Cải cách tư pháp phải kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu đã đạt được của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tiếp thu những giá trị chung của nhân loại phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế.

- Cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp và triển khai thi hành các quy định mới của Luật Tổ chức Toà án nhân dân

Về Tòa án nhân dân, Chương VIII Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”;

Toà án nhân dân được tổ chức theo bốn cấp, bao gồm: Toà án nhân dân tối cao, Toà án nhân dân cấp cao, Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm và lựa chọn ban hành án lệ để các Thẩm phán, Hội thẩm nghiên cứu, áp dụng trong xét xử; việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn; Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm; Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn; nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm; trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án phát hiện và kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; bảo đảm quyền được suy đoán vô tội đối với bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự.

Những quy định nêu trên cần được tiếp tục cụ thể hóa trong các luật tố tụng để hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện; bảo đảm tính đồng bộ và thống nhất của hệ thống pháp luật.

- Khắc phục những tồn tại, bất cập trong quá trình giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án

Việc xây dựng các dự án luật tố tụng (sửa đổi) phải được tiến hành trên cơ sở tổng kết thực tiễn nhằm khắc phục những hạn chế, vướng mắc, bất cập, kế thừa những quy định còn phù hợp, đang phát huy tác dụng.

Thực tiễn công tác xét xử cho thấy, trong các luật tố tụng hiện hành, các quy định về thẩm quyền xét xử của từng cấp Tòa án chưa thực sự hợp lý; quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng chưa đầy đủ, chưa có quy định về quyền tiếp cận, trao đổi chứng cứ giữa các bên trong tố tụng dân sự và tố tụng hành chính; nội hàm của khái niệm tranh tụng chưa được làm rõ và quy định cụ thể; thủ tục hỏi, tranh luận tại phiên tòa chưa bảo đảm thực hiện quyền tranh tụng; thủ tục giám đốc thẩm và các căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm còn có những bất cập cần được bổ sung, sửa đổi; hiệu lực thi hành các bản án, quyết định của Toà án chưa bảo đảm, chưa đáp ứng được sự mong đợi của người dân và toàn xã hội, đặc biệt là các bản án, quyết định hành chính v.v...

Những tồn tại, bất cập nêu trên cần được tổng kết, thảo luận để có những sửa đổi, bổ sung hợp lý nhằm nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp đã đặt ra.

II. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN SỬA ĐỔI CÁC LUẬT TỐ TỤNG

Để thực hiện được các yêu cầu nêu trên, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện các dự án luật tố tụng, cần lưu ý một số vấn đề lớn, cơ bản sau đây:

- Điều chỉnh lại thẩm quyền xét xử của từng cấp Tòa án để phù hợp với mô hình tổ chức Tòa án 4 cấp theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014

Theo mô hình Tòa án 4 cấp, Tòa án nhân dân tối cao không xét xử phúc thẩm mà chỉ thực hiện nhiệm vụ xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm; Tòa án nhân dân cấp cao có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị; giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Toà án thuộc phạm vi lãnh thổ đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị; Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có kháng cáo, kháng nghị và xét xử sơ thẩm một số vụ án không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thuộc phạm vi lãnh thổ; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có nhiệm vụ xét xử sơ thẩm hầu hết các vụ, việc thuộc thẩm quyền của Toà án.

Như vậy, thẩm quyền xét xử của từng cấp Tòa án trong tố tụng cũng phải được cân nhắc, điều chỉnh lại để bảo đảm tính đồng bộ và thống nhất trong hệ thống pháp luật. Chẳng hạn, đối với các vụ án hành chính, Toà Hành chính thuộc Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần được giao nhiệm vụ thụ lý, xét xử sơ thẩm các khiếu kiện đối với UBND và Chủ tịch UBND cấp huyện; Tòa án nhân dân cấp cao sẽ xét xử phúc thẩm các vụ án này nếu có kháng cáo, kháng nghị. Thiết kế quy định luật tố tụng theo hướng này, hoàn toàn phù hợp và đảm bảo thực hiện đúng đắn nguyên tắc “độc lập xét xử” của Tòa án đã được quy định rõ trong Hiến pháp năm 2013.

- Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp

Đây là nội dung rất quan trọng, trong đó phải thể hiện được những quy định về trình tự, thủ tục và những phương thức cụ thể để Tòa án thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn mà Tòa án được giao theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014; đặc biệt là trình tự, thủ tục phát hiện và kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; quy trình tuyển chọn, ban hành án lệ để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật; nguyên tắc áp dụng án lệ trong xét xử; bổ sung trình tự, thủ tục và những trường hợp Tòa án tiến hành kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ khi giải quyết các vụ án hình sự; xử lý các hành vi coi thường Tòa án, cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án v.v...

- Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm

Bảo đảm tranh tụng trong xét xử là một trong những yêu cầu quan trọng của cải cách tư pháp và đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013. Theo quy định tại khoản 5 Điều 103 của Hiến pháp thì việc tranh tụng phải được bảo đảm trong xét xử chứ không chỉ tại phiên tòa. Để tiếp tục cụ thể hóa nguyên tắc này trong các luật tố tụng, trước tiên, cần phải làm rõ nội hàm của “tranh tụng” để thể hiện trong các quy định về quyền, nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng; phạm vi tranh tụng kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến khi kết thúc vụ án; trách nhiệm của Tòa án, Thẩm phán và Hội thẩm trong việc bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự, hướng dẫn các bên tranh tụng về trình tự, thủ tục thu thập, trình bày, trao đổi chứng cứ, thời hạn giao nộp chứng cứ khi giải quyết vụ án.

Qua nghiên cứu pháp luật trong nước và kinh nghiệm quốc tế, cho thấy tranh tụng trong xét xử là quá trình tố tụng mà các đương sự trong vụ án tự mình, nhờ luật sư hoặc người khác thực hiện việc thu thập, trình bày, cung cấp tài liệu, chứng cứ, tham gia phiên toà, phiên họp và các hoạt động tố tụng khác do Toà án tiến hành; đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng trong quá trình Toà án xem xét, giải quyết vụ án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Để bảo đảm tranh tụng trong xét xử, cần sửa đổi, bổ sung các quy định về quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng; đặc biệt là quyền thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ; quyền tiếp cận chứng cứ của các đương sự trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính; quyền được suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự; tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa về thủ tục và thời hạn để Luật sư (người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự) tham gia tố tụng; các bên đương sự được quyền đề nghị Tòa án triệu tập nhân chứng mà họ cho rằng sẽ góp phần bảo vệ quan điểm, lập luận của họ. Khi tiến hành xét xử, Thẩm phán chủ tọa phải là người điều hành việc tranh tụng và bảo đảm rằng các bên đương sự phải nêu quan điểm, lập luận của mình trong từng vấn đề đã được xác định; không được hạn chế thời gian tranh tụng tại phiên tòa…

(Kỳ sau đăng tiếp)

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Một số định hướng chung, cơ bản sửa đổi, bổ sung BLTTHS, BLTTDS và Luật Tố tụng hành chính (kỳ 1)