Bộ luật TTDS 2015: Quy định về quyền phản tố của bị đơn

Nam Phương| 09/08/2018 06:44
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Quyền yêu cầu phản tố là một quyền của bị đơn (người bị kiện) trong vụ án dân sự, theo đó bị đơn có quyền kiện ngược lại nguyên đơn (người kiện) nếu như yêu cầu phản tố của bị đơn đáp ứng các điều kiện của quy định pháp luật.

Thực chất việc phản tố của bị đơn là việc bị đơn đi khởi kiện ngược lại người đã khởi kiện mình, nhưng được xem xét giải quyết cùng với đơn khởi kiện của nguyên đơn trong vụ án vì việc giải quyết yêu cầu của hai bên có liên quan tới nhau.

Về thời điểm, so với quy định BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011, bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. BLTTDS năm 2015, yêu cầu phản tố của bị đơn chỉ được chấp nhận “trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải” (Khoản 3 Điều 200). Quy định này giúp cho việc giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn của Tòa án được chủ động và hợp lý hơn, rút ngắn thời gian giải quyết vụ án.

Việc đưa ra yêu cầu phản tố được thực hiện theo thủ tục khởi kiện của nguyên đơn. Như vậy, về bản chất đưa ra yêu cầu phản tố cũng giống như việc khởi kiện một vụ án, vì vậy vai trò của bị đơn lúc này cũng đã khác, không chỉ đơn thuần là bị đơn mà kiêm luôn quyền và nghĩa vụ của một nguyên đơn trong vụ án dân sự.

 Về mặt hình thức, việc thực hiện quyền phản tố của bị đơn phải tuân thủ hình thức như khởi kiện của một vụ việc, có nghĩa là bị đơn phải soạn đơn phản tố bằng văn bản và gửi tới Toà án, sau đó bị đơn sẽ phải thực hiện nghĩa vụ nộp tạm ứng án phí như nguyên đơn. Thời hạn chuẩn bị xét xử sẽ được tính lại kể từ ngày bị đơn nộp tạm ứng án phí hoặc trong trường hợp bị đơn được miễn án phí thì tính từ ngày Toà án nhận được đơn phản tố.

Khoản 6 Điều 72 BLTTDS quy định: “Trường hợp yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập không được Tòa án chấp nhận để giải quyết trong cùng vụ án thì bị đơn có quyền khởi kiện vụ án khác”. 

 Trong trường hợp yêu cầu phản tố của bị đơn được Tòa án chấp nhận thì yêu cầu này được Tòa án xem xét giải quyết như đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền, nghĩa vụ liên quan, tức bị đơn sẽ thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình tương tự như nguyên đơn với yêu cầu khởi kiện, cụ thể như sau:

 Nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm. Đồng thời, trong phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, bị đơn được trình bày yêu cầu phản tố; những căn cứ để bảo vệ yêu cầu phản tố của mình và đề xuất quan điểm về những vấn đề cần hòa giải, hướng giải quyết vụ án.

Trường hợp đặc biệt trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, theo khoản 2, Điều 217, Bộ luật TTDS 2015:

 Nếu nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng, không đề nghị xét xử vắng mặt và trong vụ án đó có bị đơn yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì giải quyết như sau:

Bộ luật TTDS 2015: Quy định về quyền phản tố của bị đơn

Bị đơn trong một phiên tòa dân sự

Bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rút toàn bộ yêu cầu độc lập thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án;

Bị đơn không rút hoặc chỉ rút một phần yêu cầu phản tố thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; bị đơn trở thành nguyên đơn, nguyên đơn trở thành bị đơn;

Bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không rút hoặc chỉ rút một phần yêu cầu độc lập thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trở thành nguyên đơn, người nào bị khởi kiện theo yêu cầu độc lập trở thành bị đơn.

Nếu bị đơn có yêu cầu phản tố vắng mặt lần hai mà không có người đại diện tham gia phiên tòa sơ thẩm thì bị coi là từ bỏ yêu cầu phản tố và Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố, trừ trường hợp bị đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu phản tố đó theo quy định của pháp luật theo điểm c Khoản 2 Điều 227 BLTTDS 2015.

 Trong phiên tòa sơ thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu phản tố và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Bị đơn có quyền bổ sung ý kiến theo Điểm b, Khoản 1, Điều 248, BLTTDS 2015. Đồng thời, trong bản án sơ thẩm, nội dung vụ án và nhận định của Tòa án phải ghi yêu cầu phản tố của bị đơn.

Thực tế đã có những quan điểm khác nhau về việc có hay không có việc áp dụng thời hiệu khởi kiện cho yêu cầu phản tố. Trên thực tế có hai luồng ý kiến khác nhau về việc có nên hay không nên áp dụng thời hiệu khởi kiện vào yêu cầu phản tố:

Yêu cầu phản tố cũng được coi là yêu cầu khởi kiện nên cũng phải áp dụng thời hiệu khởi kiện giống như yêu cầu khởi kiện. Theo khoản 4 Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 “Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của nguyên đơn. Đối với yêu cầu phản tố thì bị đơn có quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này”. Như vậy, yêu cầu phản tố của bị đơn cũng được hiểu là chính là một yêu cầu khởi kiện, khi có phát sinh “yêu cầu phản tố” thì bị đơn cũng có đầy đủ quyền và nghĩa vụ như nguyên đơn. Nếu yêu cầu phản tố đã quá thời hiệu khởi kiện thì Toà án sẽ lấy đó làm căn cứ để không chấp nhận việc khởi kiện của bị đơn. 

Quan điểm thứ hai cho rằng yêu cầu phản tố không phải là yêu cầu khởi kiện mà chỉ được áp dụng các thủ tục của yêu cầu khởi kiện do có tính chất tương tự nên không được áp dụng thời hiệu khởi kiện. Khoản 4 Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố tại bất kỳ thời điểm nào trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải”. Như vậy, thời hiệu khởi kiện chỉ áp dụng đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chứ không áp dụng đối với yêu cầu phản tố của bị đơn, ở đây có nghĩa là “đây là quyền không bị hạn chế về thời hiệu của bị đơn”.                                                                      

 

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Bộ luật TTDS 2015: Quy định về quyền phản tố của bị đơn