Tết của người Jrai được bắt đầu khi những cây mai vàng kết trái và cũng là lúc mùa khô kết thúc để nhường chỗ cho những giọt mưa đầu tiên rớt xuống trên những cành cây, nương rẫy bị khô hạn.
Đó là những giọt "vàng" làm tươi tắn cả con người lẫn cảnh vật nơi đây.
Đón Tết trong giao mùa khô-mưa
Cao nguyên của núi rừng Tây Nguyên chỉ có hai mùa mưa và khô, bởi vậy nhiều dân tộc bản địa sinh sống trên mảnh đất đỏ bazan đều căn cứ vào đó để tạo cho mình một cách tính lịch riêng. Theo đó, lịch của người Jrai (cư trú tập trung chủ yếu ở 3 tỉnh Gia Lai, Kon Tum và Đắk Lắk) theo nông lịch, 1 năm có 12 tháng như lịch chung của cả nước. Điều đặc biệt ở chỗ, cứ mỗi năm, khi mùa khô qua đi, những hạt mưa rơi xuống đầu tiên cũng là lúc báo hiệu một năm mới của dân tộc này.
Trong mười hai tháng theo lịch của người Jrai thì 10 tháng đầu tiên được gọi tên bằng số từ 1 đến 10, còn hai tháng cuối thì có tên riêng lần lượt là tháng Ning Nung và tháng Wor. Theo quan niệm xa xưa, Ning Nung là hình tượng con cá dưới nước, con thú trên rừng. Tháng Ning Nung có thể xem là tháng săn bắt, còn Wor hiểu theo nghĩa đen của từ này là “quên”.
Bởi vậy, tháng Wor là tháng người dân quên đi bao mệt mỏi, phiền não trong cuộc sống thường ngày của năm qua để đón chào những niềm vui, hạnh phúc cho năm sắp tới. Đầu năm, tháng một, tháng của sự phấn khởi, háo hức, là tháng mà ông trời ban lộc “nước” xuống sau những tháng, ngày ruộng, nương nứt nẻ vì nắng, giếng nước cạn khô...
Men rượu cần là thứ không thể thiếu trong các lễ, tết
Cùng với đó, cây cối lần lượt rũ bỏ lớp áo cũ, khoác lên mình những chồi non mới, bao nhiêu bụi bẩn đều được rửa sạch bởi những con mưa đầu mùa. Những đường nứt nẻ vì hạn hán ở ruộng đồng đã được lấp đầy nước, khiến cho đất đai lại có dịp được bung nở sau quãng thời gian dài bị nắng đốt co cụm lại.
Người Jrai không thống nhất ngày tết nguyên đán, mà chỉ thống nhất tháng tết nguyên đán là tháng 1 (tháng tư theo dương lịch). Trong tháng này, không ấn định một ngày cụ thể, bởi ở mỗi vùng đất theo khí hậu thời tiết, mưa rơi xuống theo những ngày khác nhau. Chính vì thế, ngày tết được chọn và tổ chức tùy theo gia đình, tùy theo khu vực làng lựa chọn nên không có đêm giao thừa.
Bước vào năm mới, người Jrai không đón tết nguyên đán riêng. Họ, đón mừng năm mới bằng cách các gia đình Jrai thường tổ chức kèm theo một lễ nào đó như: Lih (lễ tạ ơn).Thông thường các lễ khác do thầy cúng chủ trì còn lễ tạ ơn giao cho bà mối chủ trì. Lễ này được thực hiện trong nhà, mời cha mẹ hai bên cùng vào nhà (vì đây là lễ tạ ơn cha mẹ của đôi vợ chồng mới cưới). Họ ngồi giữa nhà, xung quanh rượu ghè, thịt gà và thịt heo được chuẩn bị sẵn. Sau đó, bà mối (chủ hôn) của đôi vợ chồng tuyên bố lý do có cuộc gặp, chủ yếu là nói về công lao của cha mẹ đã sinh thành nuôi dưỡng vất vả như thế nào.
Đặc biệt trong không khí ngày tết, không thể thiếu nghi thức lễ Pơ Thi (lễ bỏ mả), đây cũng được xem là phần lễ có sự chuẩn bị lâu dài, tổ chức trang trọng và hoành tráng nhất. Bởi lẽ, lễ hội “bỏ mả” là cuộc trình diễn nghệ thuật lớn nhất, mang tính chất tổng hợp trong tất cả các loại hình nghệ thuật dân gian của dân tộc Jrai. Bữa ăn bên nhà mồ là bức tranh đầy đủ về "văn hoá ẩm thực" của tộc người Jrai. Đây là bữa ăn mang tính cộng đồng lớn nhất về quy mô những người tham dự, về sự phong phú của các món ăn và cả về nghi thức tín ngưỡng đời thường. Nghệ thuật nhà mồ cũng là hình thức tổng hợp bao gồm nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau như: kiến trúc, điêu khắc, hội họa, trang trí, nghệ thuật đan. Đây là biểu tượng, đề cao tính nhân văn của con người, lấy con người làm trung tâm vũ trụ.
Tết độc đáo, mang bản sắc riêng
Theo phong tục người Jrai, họ rất kỹ lưỡng trong việc chọn và chăm sóc con vật được xác định dùng để cầu, cúng trong ngày tết nhằm tỏ lòng thành kính với thần linh, tổ tiên. Ngay khi mới nuôi, gia chủ sẽ làm một lễ nhỏ cầu xin các thần phù hộ cho nó hay ăn chóng lớn. Khi nuôi, nếu không may con vật này chết đi, muốn nuôi con vật khác để dùng trong ngày tết thì lại phải cúng nữa.
Khác biệt với các dân tộc khác, bánh tét, bánh chưng luôn là món đặc trưng không thể thiếu trong dịp lễ tết, thì ở đây, người Jrai lại dùng cơm lam thay cho bánh. Với họ, cơm lam được nấu trong những ống lồ ô rất nhiều. Cùng với đó, những chú heo sau một thời gian được thả rông đã được chăm sóc, vỗ béo đặc biệt khoảng một tháng trước khi bị làm thịt. Từ đây, thức ăn ngày tết của người Jrai thường là món thịt nướng; món phèo; món canh bí nấu với xương heo; thịt heo luộc thái miếng trộn với thính làm từ bột ngô rang…
Đặc biệt, trong mỗi cuộc vui, không thể thiếu đi men rượu cần. Ngày tết, người Jrai nhà nào nhà nấy, nấu rất nhiều rượu. Người ta cho rằng, rượu của họ là do Giàng (Trời) bày cho cách làm, vậy nên khi muốn cầu thần linh chứng giám một việc gì đó, bắt buộc phải có rượu cần, phải như thế thì lời cầu nguyện của họ mới linh nghiệm. Chính vì sự thiêng liêng đó, nên tục uống rượu cần của người đồng bào dân tộc Jrai từ lâu đã trở thành một nét văn hóa tín ngưỡng.
Cách chế biến rượu cần được làm khá công phu, chất liệu là lương thực - thứ sản phẩm nuôi sống con người như thóc chỉ trật vỏ trấu, còn ngô thì chỉ giã dập chứ không xay nhỏ cùng với lá, rễ cây rừng. Để rượu được thơm, ngon có nơi ủ trong ghè cả năm, vì men tự làm bằng nguyên liệu lấy trong rừng thì để càng lâu càng tốt. Nhờ khéo tay, cơm ráo, men rượu lại tốt nên rượu cần của người Jrai thường rất ngọt và không có vị chua, nồng độ vừa phải, dễ uống. Bởi vậy, vào những dịp lễ tết, tất cả mọi người, từ già trẻ, gái trai, không phân biệt chức sắc hay dân thường, ai cũng vin rượu cần mà uống, uống cho đến khi “no cái bụng” rồi say mới thôi.
Nghi lễ mời thầy về làm lễ trong ngày tết cũng rất được chú trọng, trước khi ăn uống, người Jrai thường nhờ thầy cúng gọi các thần núi, thần sông, thần suối gần đó và gọi tổ tiên về ăn chung. Quá trình cúng, thầy đặt một ngón tay vào ghè rượu rồi lẩm bẩm đọc lời. Lúc kết thúc lời cúng, thầy lấy nước trong bát đồng đổ vào ghè rượu. Ai là nhân vật chính trong lễ thì được ưu tiên cầm cần uống trước.
Trong ngày tết, khi một nhà tổ chức ăn uống, chỉ cần được thông báo hay nghe tin, không cần biết gia chủ có mời hay không, người ngoài liền mang thức ăn, gạo đến góp và ăn, uống bình thường. Gia chủ cũng chẳng quan tâm hay để ý việc ai góp nhiều hay ít, với họ có người đến là “ưng cái bụng” rồi. Cứ thế, họ uống rượu rồi quây quần bên nhóm lửa đỏ rực, nắm tay nhau tạo thành một vòng tròn cùng múa điệu xoang trong tiếng ngân vang của cồng chiêng gần gũi.
Sau một tháng đón Tết nguyên đán, người Jrai bước vào vụ mới. Trước khi lên nương, tha pơ-lơi hay tha bôn (già làng) là người tổ chức lễ cúng để cầu mong mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu, con chuột, con chim không đến quấy phá.
Người Jrai cũng như một số dân tộc thiểu số anh em khác có ngày Tết nguyên đán truyền thống không trùng với người Kinh. Nhưng với họ, Tết nguyên đán của người Kinh được đồng bào các dân tộc coi là cái tết chung của đại gia đình Việt Nam. Và như thế, đồng bào dân tộc có hai tết nguyên đán, hai niềm vui đón xuân, niềm hạnh phúc của đồng bào như được nhân đôi. Với người Jrai, dù cuộc sống có nhiều thay đổi song họ vẫn giữ được nhiều phong tục tập quán, văn hóa truyền thống riêng, đặc biệt trong dịp lễ tết, góp phần tô đậm bản sắc văn hóa dân tộc phong phú và đa dạng của 54 dân tộc anh em ở Việt Nam.