Cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Thanh Hóa thường sinh sống trên các khu vực miền núi, đường giao thông còn hạn chế, một số bản chưa có điện lưới quốc gia. Nguồn thu nhập chính dựa vào nông nghiệp manh mún, kém hiệu quả, chăn nuôi nhỏ lẻ theo hình thức tự cung, tự cấp. Chính vì vậy, để cộng đồng người dân tộc nâng cao đời sống cần thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp thiết thực.
Thanh Hóa có 11 huyện miền núi và 6 huyện, thị xã có xã, thôn miền núi; là nơi sinh sống của 7 dân tộc chủ yếu: Kinh, Mường, Thái, Thổ, Mông, Dao và Khơ Mú, với dân số gần 1 triệu người. Trong đó, người dân tộc thiểu số hơn 700 nghìn người, chiếm gần 19% dân số cả tỉnh và hơn 70% dân số của khu vực miền núi; đây là vùng tiếp giáp với nước CHDCND Lào có chiều dài 213,6 km đường biên giới thuộc 5 huyện: Mường Lát, Quan Hóa, Quan Sơn, Lang Chánh và Thường Xuân.
Trong những năm qua, các cấp ủy đảng, chính quyền của tỉnh Thanh Hóa đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chương trình, dự án, chính sách dân tộc được triển khai thực hiện có hiệu quả đã tạo sự chuyển biến quan trọng trong công tác giảm nghèo ở khu vực đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Theo đó, thu nhập bình quân đầu người khu vực miền núi năm 2022 đạt 34,6 triệu đồng; đầu tư công trình điện cho 20 thôn, bản chưa có điện lưới quốc gia; tỷ lệ trường, lớp học được xây dựng kiên cố đạt 100%; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 55%; tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 19,9% xuống còn 15,19% (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2022 - 2025).
Để khoảng cách giữa miền núi và miền xuôi không bị nới rộng, Thanh Hóa đã ban hành nhiều nghị quyết, chính sách ưu tiên, khuyến khích, hỗ trợ cho cộng đồng dân tộc thiểu số trên địa bàn. Công tác tuyên truyền, vận động được đẩy mạnh, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc thực hiện công tác giảm nghèo; tạo động lực đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố niềm tin của đồng bào đối với Đảng, Nhà nước, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của tỉnh.
Tuy nhiên, khu vực miền núi của tỉnh có địa hình phức tạp, chia cắt mạnh, độ dốc lớn, xa các trung tâm kinh tế động lực của tỉnh, hệ thống hạ tầng còn thiếu và yếu kém, nhất là giao thông, thủy lợi, gây khó khăn cho phát triển kinh tế - xã hội. Là khu vực thường xảy ra thiên tai; chịu tác động bất lợi của thời tiết cực đoan, biến đổi khí hậu, gây hậu quả nặng nề như: Sạt lở đất, lũ ống, lũ quét, hạn hán, gây khó khăn cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thu hút đầu tư và đời sống nhân dân.
Địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là nơi xa xôi, cách trở, biên giới, thuận lợi cho các loại tội phạm, nhất là tội phạm ma túy hoạt động; tình trạng di cư tự do, nghiện hút, truyền đạo trái phép vẫn chưa được giải quyết.
Bên cạnh những chủ trương, chính sách hỗ trợ từ bên ngoài, cần đánh thức tinh thần tự hào, tự tôn, tự lực của mỗi người dân, cộng đồng người dân tộc. Khơi dậy khát vọng vươn lên thoát nghèo, xóa bỏ tâm lý tự ti, cam chịu, tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ, giúp đỡ của Nhà nước.
Phát huy vai trò của các lực lượng tại cơ sở, nhất là Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, lực lượng biên phòng, công an, quân sự, giáo viên, những người có uy tín trong cộng đồng ở vùng dân tộc, miền núi... trong công tác tuyên truyền, vận động, hướng dẫn, giúp đỡ người nghèo, hộ nghèo chủ động, tích cực vươn lên thoát nghèo bền vững.
Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật trong đồng bào các dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh tuyên truyền các biện pháp phòng chống thiên tai, thảm họa, dịch bệnh; xóa bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu; tích cực thực hiện các chủ trương, biện pháp bảo đảm trật tự an toàn xã hội, nhất là khu vực biên giới, vùng dân tộc.
Đến nay, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều toàn tỉnh giảm 1,79%, vượt mục tiêu Chương trình đề ra (Kế hoạch đề ra là 1,5%); tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm: 7,33%, vượt mục tiêu Chương trình đề ra (Kế hoạch đề ra là 3%); tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm 5,4%, vượt kế hoạch đề ra (Kế hoạch đề ra là 4 - 5%); tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực miền núi giảm từ 19,9% (năm 2021) xuống còn 15,19% (năm 2022) bình quân giảm 4,71%.
Bằng nhiều giải pháp thiết thực, cụ thể, hợp với lòng dân Thanh Hóa đang đặt mục tiêu thu nhập bình quân đầu người ở khu vực miền núi gấp 2 lần so với năm 2020 (năm 2020 là 33,1 triệu đồng); giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào; tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, phục vụ sản xuất, đời sống cho nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Quy hoạch, sắp xếp, bố trí, ổn định dân cư ở những nơi cần thiết: Hoàn thành công tác định canh, định cư; quy hoạch, sắp xếp, di dời, bố trí 4.501 hộ dân đang cư trú phân tán, rải rác trong rừng đặc dụng, các khu vực xa xôi, hẻo lánh, nơi có nguy cơ xảy ra lũ ống, lũ quét, sạt lở đất, di cư tự do đến các điểm dân cư nông thôn, khu dân cư mới theo quy định.
Phát triển giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Tỷ lệ trường, lớp học được xây dựng kiên cố đạt 100%. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia: Mầm non 75%, tiểu học 80%, THCS 70%, THPT 70%; tỷ lệ người dân biết chữ trong độ tuổi từ 15 - 30 tuổi đạt 99%; tỷ lệ học sinh mẫu giáo 5 tuổi đến trường đạt 100%; học sinh trong độ tuổi học tiểu học đến trường đạt 100%, học THCS đạt 100%, học THPT đạt 95%). Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 60%, số lao động được tạo việc làm bình quân đạt 20.000 người/năm.
Chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng cao thể trạng, tầm vóc người dân tộc thiểu số; phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em: Tỷ lệ trạm y tế xã được xây dựng kiên cố đạt 100%; tỷ lệ xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế đạt 100%; số trạm y tế có bác sỹ đạt 95%; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi thể nhẹ cân dưới 15%; Tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số tham gia bảo hiểm y tế đạt 95%; Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 95%.
Tỷ lệ thôn, bản có nhà văn hóa - khu thể thao đạt 80% trở lên; có từ 55% số thôn, bản có đội văn hóa, văn nghệ (câu lạc bộ) truyền thống hoạt động thường xuyên; tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số được xem truyền hình và nghe đài phát thanh đạt 100%. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2,67%/năm; tỷ lệ hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số giảm 3%/năm.