ĐBQH "phản pháo" Bộ trưởng Nông nghiệp xung quanh việc “giải cứu đàn lợn”

Trọng Bằng| 13/06/2017 12:02
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Là Bộ trưởng đầu tiên đăng đàn trả lời tại phiên chất vấn sáng nay (13/6), xung quanh câu chuyện "giải cứu đàn lợn" ĐBQH đã bày tỏ chưa thỏa đáng đối với trả lời chất vấn của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường.

Đầu giờ sáng nay đã có 68 đại biểu đăng ký chất vấn Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường xoay quanh 3 nhóm vấn đề: Giải pháp đột phá và lộ trình thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại ngành nông nghiệp trong thời gian tới; Biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm, hướng đến xây dựng nền nông nghiệp hàng hóa, phát triển nông nghiệp bền vững; Công tác bảo tồn, bảo vệ, tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản, quản lý các hoạt động khai thác thủy sản.

Trong đó, căn cứ xây dựng quy hoạch phát triển ngành chăn nuôi lợn qua câu chuyện "giải cứu đàn lợn" là một trong những nội dung ĐBQH quan tâm chất vấn. Vấn đề này, ĐBQH Nguyễn Văn Sơn (Hà Tĩnh) đặt câu hỏi: Bộ NN&PTNT đã xây dựng quy hoạch phát triển chăn nuôi. Theo Quy hoạch số 24 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, thì tổng đàn lợn đến năm 2015 là 32,5 triệu con, đến năm 2020 là 34,4 triệu con. Nhưng theo số liệu thống kê hàng năm, thì đến năm 2015 tổng đàn lợn mới đạt 27,75 triệu con và đến tháng 10.2016 mới đạt 29,07 triệu con - thấp hơn nhiều so với quy hoạch mà thị trường đã dư thừa hàng triệu con, giá lao dốc không phanh. Người chăn nuôi lúng túng trong các giải pháp giải cứu. Đề nghị Bộ trưởng cho biết nguyên nhân, giải pháp và giải pháp của Bộ NN&PTNT về lĩnh vực này?.

ĐBQH

Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường trả lời chất vấn

Trả lời chất vấn Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường cho biết, tổ chức thị trường và khâu chế biến đang là khâu yếu nhất. “Đang từ bán ở chợ nhà, làm để ăn, muốn hội nhập thế giới thì phải tổ chức lại sản xuất, từng ngành hàng phải có thời gian tổ chức, chế biến, quản lý… Vì vậy, trong thời gian ngắn tới, không thể tránh chuyện nơi này thừa cái này, thiếu cái kia”, Bộ trưởng nói.

Việc dư thừa thịt lợn vừa qua, theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, có 2 nguyên nhân chính. Một là sức sản xuất tăng trưởng quá nhanh trong thời gian quá ngắn. Bên cạnh đó, cơ cấu rổ thực phẩm của Việt Nam đã thay đổi. “Trước đây bữa cơm bữa cỗ 70% là thịt lợn, giờ người dân có nhiều lựa chọn hơn dẫn đến cung lớn hơn cầu”. 

Thứ hai, tổ chức ngành hàng chưa tốt, khâu liên kết trong sản xuất, chế biến kém, dẫn tới tiêu thụ chủ yếu là thịt tươi, không còn phù hợp với thực tế hiện nay. 

Bộ trưởng thừa nhận tổ chức ngành hàng chưa tốt, cả nước có 3 triệu hộ chăn nuôi, quy mô nhỏ như vậy thì giá thành cao, khó kiểm soát dịch bệnh. Khâu tổ chức thị trường được đánh giá yếu nhất. Hiện Việt Nam mới xuất khẩu lợn sữa sang 3 nước, còn lại chủ yếu ngoại thương qua Trung Quốc. Những thị trường khác chưa khai thác được. Từ đây dẫn đến hệ lụy tháng 4 vừa qua, khi biên giới bán hàng không được nữa, sức tiêu thụ giảm đi.

“Dự đoán nhu cầu thực phẩm trước đây dựa vào tốc độ tăng trưởng nhưng chưa tính được cơ cấu tương quan của thực phẩm. Hội nhập mang đến nhiều dòng sản phẩm nhập khẩu. Chúng ta không tính kỹ được ở chỗ này. Ở đây có trách nhiệm của ngành nông nghiệp”, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nói.

Tranh luận lại với Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, ĐBQH Nguyễn Thanh Hồng (Bình Dương) cho rằng trả lời của Bộ trưởng về căn cứ lập quy hoạch phát triển đàn lợn chưa thuyết phục. Xuyên suốt câu trả lời vắng bóng vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Lập quy hoạch thời điểm đó phù hợp nhưng cơ chế thị trường thay đổi thì vai trò của Nhà nước trong bối cảnh đó như thế nào để có giải pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm.

“Lâu nay chúng ta có khẩu hiệu người tiêu dùng thông minh, Bộ trưởng nói nhà sản xuất phải thông minh nhưng người dân nói nhà quản lý phải thông mình. Cây ăn trái tôi nghĩ tiếp tục phải giải cứu trong thời gian tới. Bộ trưởng có thống nhất với tôi không?”, ĐBQH Nguyễn Thanh Hồng đặt câu hỏi.

Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nhận trách nhiệm để xảy ra tình trạng dư thừa thịt lợn vừa qua và cam kết: thời gian tới, không chỉ với sản phẩm thịt lợn, mà nhiều sản phẩm khác sẽ được rà soát lại quy hoạch, chỉ rõ hơn sự phối hợp giữa Trung ương với địa phương, giữa các ngành kinh tế để làm tốt hơn, từng bước phát triển sản xuất nông sản.

Liên quan vấn đề này, Bộ trưởng Công Thương Trần Tuấn Anh giải trình làm rõ thêm một số nội dung về tổ chức thị trường, cơ cấu lại các ngành hàng nông sản để phát huy lợi thế cạnh tranh xuất khẩu.

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho rằng, khâu quan trọng nhất trong sản xuất nông nghiệp là phải căn cứ vào nhu cầu và tín hiệu của thị trường, kể cả trong và ngoài nước, để xây dựng các quy hoạch và tổ chức các quy hoạch đó cho tốt.

Theo Bộ trưởng, việc đàn lợn có tốc độ tăng trưởng nhanh cho thấy năng lực, tiềm năng của chúng ta, nhưng chúng ta vẫn có thể phát triển tốt nếu làm tốt công tác thị trường.

Liên quan đến công tác thị trường phải giải quyết được 2 vấn đề. Một là, mở cửa thị trường về mặt thương mại, tức là các vấn đề liên quan thuế suất, thuế nhập khẩu. Hai là, phải mở cửa về mặt thủ tục hành chính và các hàng rào kỹ thuật. Theo Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, chúng ta đã làm tốt khâu đầu, tức là mở cửa thị trường, nhiều thuế suất thậm chí về 0%. Chúng ta có dư địa để sản xuất rất nhiều sản phẩm, trong đó có thịt lợn. Nhưng còn hàng rào kỹ thuật là vấn đề cơ bản thì lại chưa bảo đảm theo quy chuẩn của các nước nhập khẩu, cụ thể như Trung Quốc.

“Từ năm 2016, hai Bộ đã liên tục phối hợp với nhau triển khai các hoạt động với phía Trung Quốc. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là để thông qua được hàng rào kỹ thuật với Trung Quốc thì việc đầu tiên phải được công nhận vùng chăn nuôi của Việt Nam không có dịch bệnh lở mồm long móng. Đây là yêu cầu tối thiểu cần có thông qua hàng rào kỹ thuật. Do đó, công tác quy hoạch phải tính toán lại và tổ chức sản xuất phải bảo đảm chất lượng, giá thành”, Bộ trưởng Bộ Công Thương cho biết.

8 giải pháp đột phá cơ cấu lại nông nghiệp

Theo báo cáo trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV, Bộ NN&PTNT xác định 8 giải pháp đột phá nhằm cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2016-2020 như sau:

Thứ nhất, tiếp tục quán triệt, tuyên truyền nâng cao nhận thức và tạo sự thống nhất về tính tất yếu và tầm quan trọng của thực hiện cơ cấu lại nông nghiệp đến các cấp, ngành, địa phương và người dân và về xây dựng nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và biến đổi khí hậu; tăng cường vai trò, trách nhiệm của Lãnh đạo các cấp, ngành, địa phương trong tổ chức thực hiện chủ trương này.

Thứ hai, tập trung nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; thực hiện các mục tiêu tại Nghị quyết 26/NQ-TW của Trung ương 7, Khóa X và các chủ trương của Đảng, Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; tạo điều kiện để nông dân và doanh nghiệp tiếp cận thuận lợi hơn về đất đai, nguồn vốn và thị trường để mở rộng sản xuất hàng hóa có khả năng cạnh tranh cao đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Thứ ba, rà soát, điều chỉnh chiến lược, quy hoạch, quy mô và cơ cấu sản xuất phù hợp với lợi thế, nhu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu

Tiếp tục rà soát quy hoạch, chiến lược, kế hoạch sản xuất từng lĩnh vực và lợi thế của từng địa phương, tính đến nhu cầu thị trường (trong nước và thế giới) và ứng phó với BĐKH; cơ cấu lại sản phẩm theo 3 nhóm: (1) Nhóm sản phẩm chủ lực quốc gia (những sản phẩm có kim ngạch xuất khẩu từ 1,0 tỷ USD trở lên và thịt lợn, gia cầm), tiến hành rà soát quy hoạch và xây dựng vùng sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn, tổ chức hợp tác, liên kết theo chuỗi giá trị và ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến; (2) Nhóm sản phẩm chủ lực cấp tỉnh, các địa phương căn cứ lợi thế và điều kiện cụ thể, lựa chọn nhóm sản phẩm này để quy hoạch và đầu tư theo hướng như đối với sản phẩm quốc gia nhưng quy mô cấp địa phương; có chiến lược và giải pháp để mở rộng quy mô, sức cạnh tranh, từng bước bổ sung vào nhóm sản phẩm chủ lực quốc gia; (3) Nhóm sản phẩm vùng/miền là đặc sản của các địa phương, có chỉ dẫn địa lý cụ thể, nhưng có quy mô nhỏ, sẽ được xây dựng và phát triển gắn với xây dựng nông thôn mới ở xã theo mô hình “Mỗi làng, xã một sản phẩm”.

Thứ tư, tiếp tục đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, trọng tâm là phát triển doanh nghiệp nông nghiệp, phát triển các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu; đẩy mạnh đổi mới và phát triển các hợp tác xã nông nghiệp, phát triển trang trại theo hướng chú trọng hơn tới việc tổ chức nông dân sản xuất hàng hóa quy mô lớn, chất lượng cao, cạnh tranh quốc tế; thực hiện chuyển mạnh lao động nông nghiệp sang các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn.

Thứ năm, tăng cường nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ giải quyết các vấn đề căn cốt trong chuỗi sản xuất, nhất là công nghệ giống, quy trình và các khâu chế biến, phân phối với cả 3 nhóm sản phẩm quốc gia, cấp tỉnh, sản phẩm địa phương; phát triển mạnh nông nghiệp công nghệ cao trong tất cả các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ của ngành; khuyến khích các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng công nghệ cao nhằm tạo đột phá về năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi, nâng cao khả năng cạnh tranh, hiệu quả của ngành; đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Tiếp tục mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo nông dân, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH của ngành.

Thứ sáu, đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển thị trường

Bộ sẽ thành lập cơ quan quản lý tập trung, thúc đẩy chuỗi chế biến nông sản gắn với mở rộng thị trường; kết hợp với Bộ Công Thương, Bộ Ngoại giao, các địa phương, các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp và tổ chức của nông dân để khai thác, mở rộng thị trường xuất khẩu, kể cả thị trường truyền thống và nhóm thị trường mới; tăng cường năng lực hội nhập quốc tế; nghiên cứu đánh giá các tác động của hội nhập quốc tế đem lại; tăng cường năng lực dự báo và thông tin thị trường trong nước và quốc tế; đẩy mạnh xúc tiến thương mại; hỗ trợ doanh nghiệp về các vấn đề pháp lý trong giải quyết tranh chấp thương mại, giảm thiểu rủi ro trong hội nhập quốc tế.

Phát triển mạnh thị trường trong nước, điều hành cân đối cung cầu các mặt hàng thực phẩm thiết yếu, nhạy cảm; phát triển hệ thống bán lẻ, xây dựng hình ảnh nông sản chất lượng cao, an toàn thực phẩm và phù hợp thị hiếu người tiêu dùng; đẩy nhanh hoàn thành xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm chủ lực quốc gia, đặc sản địa phương gắn với chỉ dẫn địa lý.

Thứ bảy, tiếp tục huy động các nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn ngày càng hiện đại, đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất hàng hóa quy mô lớn, hội nhập quốc tế; tăng cường năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu; cơ bản nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu trên địa bàn xã, bao gồm cả các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội theo hướng CNH, HĐH và rút dần khoảng cách phát triển giữa các vùng miền.

Thứ tám, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tăng cường đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý ngành từ trung ương đến địa phương. Kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của các Ban chỉ đạo và bộ máy giúp việc các cấp, tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ về cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới.

Theo Bộ NNPTNT, để tạo được chuyển biến rõ rệt trong thực tế, cần triển khai đồng bộ cả 8 giải pháp trên, trong đó trọng tâm là phải (1) hoàn thiện cơ chế chính sách, (2) tăng cường nghiên cứu chuyển giao và ứng dụng KHCN và (3) đổi mới, phát triển các hình thức tổ chức sản xuất (đổi mới mô hình tăng trưởng) để tạo “đột phá” trong cơ cấu lại nông nghiệp.

Đọc tiếp
(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
ĐBQH "phản pháo" Bộ trưởng Nông nghiệp xung quanh việc “giải cứu đàn lợn”