Kỹ năng hòa giải vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động

Trần Quang Huy| 17/10/2017 08:15
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Suốt quá trình hòa giải, Thẩm phán cần có phong cách giao tiếp thư thái, tự tin, giữ vai trò trung gian, vô tư, khách quan, công bằng, không áp đặt.

Cử chỉ, tác phong, thái độ của Thẩm phán phải thể hiện sự thân thiện; sử dụng ngôn ngữ dễ nghe, dễ hiểu, kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ pháp lý và ngôn ngữ đời thường; quan sát, nắm bắt kịp thời diễn biến tâm tư của các đương sự.

Thẩm phán khi tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải (gọi chung là phiên họp) thì thủ tục bắt đầu phiên họp thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 210 BLTTDS. Khi kiểm tra sự có mặt và căn cước của những người tham gia phiên họp, trong trường hợp có người vắng mặt thì Thẩm phán phải xem xét thận trọng và xác định có thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 BLTTDS hay không để ra quyết định.

Trường hợp đương sự phải có người đại diện theo quy định của pháp luật thì kiểm tra sự có mặt và tư cách tham gia phiên hòa giải của người đại diện. Trường hợp có người đại diện theo ủy quyền thì xác định tính hợp pháp của việc ủy quyền (thủ tục và phạm vi ủy quyền). Khi kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, Thẩm phán thực hiện theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 210 BLTTDS. Việc lập Biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và Biên bản về việc hòa giải được thực hiện theo quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều 211 BLTTDS và theo Mẫu số 34-DS, Mẫu số 35-DS ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/1/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban hành một số biểu mẫu trong TTDS.

Đối với thủ tục tiến hành hòa giải, Thẩm phán thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 210 BLTTDS. Theo đó, khi thực hiện quy định tại điểm a khoản 4 Điều 210 BLTTDS, Thẩm phán phải giải thích, phổ biến đầy đủ, khách quan các quy định của pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án cho đương sự. Thẩm phán cần đi sâu phân tích hậu quả pháp lý của việc hòa giải thành, hòa giải không thành (trong đó bao gồm: án phí, các chi phí tố tụng khác, chi phí thi hành án) để đương sự nhận thức được tính hợp pháp trong từng yêu cầu của họ. Thẩm phán phải truyền đạt được những lợi ích của hòa giải thành mà không phân tích tính đúng, sai của đương sự, không tiết lộ đường lối xét xử vụ án. Sau khi từng đương sự, người tham gia phiên họp trình bày ý kiến theo quy định tại điểm b, c, d, đ khoản 4 Điều 210 BLTTDS mà còn có nội dung chưa rõ, chưa đầy đủ thì Thẩm phán yêu cầu họ trình bày bổ sung ngay về nội dung chưa rõ, chưa đầy đủ đó.

Kỹ năng hòa giải vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động

Thẩm phán TAND quận Long Biên, TP Hà Nội hòa giải trước khi xét xử vụ án dân sự

 Khi thực hiện quy định tại điểm e khoản 4 Điều 210 BLTTDS mà còn có nội dung chưa rõ thì Thẩm phán tiếp tục yêu cầu đương sự trình bày bổ sung để làm rõ. Nếu còn có nội dung chưa thống nhất thì Thẩm phán phải nêu đầy đủ, ngắn gọn, rõ ràng nội dung chưa thống nhất cần tiếp tục hòa giải; đưa ra một số phương án giải quyết tranh chấp để các đương sự lựa chọn. Lúc này, Thẩm phán cần phân tích lợi ích của việc giữ gìn mối quan hệ, tình cảm giữa các đương sự (tình cảm gia đình, tình cảm vợ chồng, quan hệ láng giềng, quan hệ đối tác kinh doanh...) nhằm tác động tâm lý tích cực giúp họ nghĩ đến quan hệ, tình cảm mà hòa giải. Đồng thời, Thẩm phán quan sát, nắm bắt kịp thời diễn biến tâm tư của các đương sự, chọn đúng thời điểm để tác động đến suy nghĩ, nhận thức của mỗi đương sự.

Trường hợp đa số các đương sự đã thỏa thuận được việc giải quyết tranh chấp, nhưng chỉ một hoặc một số đương sự không thiện chí thỏa thuận hoặc còn một số điểm chưa thống nhất thì Thẩm phán có thể giải thích, thuyết phục riêng để đạt được sự thống nhất. Trường hợp nội dung các đương sự đã thống nhất có vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì Thẩm phán phải giải thích quy định của pháp luật, chuẩn mực đạo đức liên quan để các đương sự thỏa thuận lại. Thẩm phán cần chú trọng phân tích nội dung vụ án, quan hệ pháp luật tranh chấp, yêu cầu cu thể của đương sự, nguyên nhân phát sinh tranh chấp, các quy định có liên quan đến nội dung tranh chấp để đương sự tự đánh giá được phần đúng, phần sai của mình để đi đến thỏa thuận với nhau những vấn đề chưa thống nhất.

Suốt quá trình hòa giải, Thẩm phán cần có phong cách giao tiếp thư thái, tự tin; sâu sắc nhưng chia sẻ; mềm dẻo, quyết đoán đúng thời điểm; vô tư và thân thiện; tập trung vào mâu thuẫn giữa các đương sự; không tập trung vào quan hệ, đặc điểm tốt, xấu của mỗi đương sự; tập trung vào lợi ích chung, không tập trung vào thái độ, cách cư xử của đương sự, không dùng ngôn ngữ tạo sự kích động cho đương sự. Thẩm phán phải giữ vai trò trung gian, vô tư, khách quan, công bằng, không áp đặt; điều hành việc hòa giải linh hoạt (lắng nghe ý kiến của các đương sự, tránh để các đương sự tổn thương tâm lý, hoặc bị xúc phạm...). Cử chỉ, tác phong, thái độ của Thẩm phán phải thể hiện sự thân thiện; sử dụng ngôn ngữ dễ nghe, dễ hiểu, kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ pháp lý và ngôn ngữ đời thường; sử dụng linh hoạt nhiều loại câu hỏi để tháo gỡ hiệu quả mâu thuẫn, tranh chấp giữa các đương sự như: câu hỏi đánh giá; câu hỏi mở; câu hỏi đóng; câu hỏi gợi ý; câu hỏi yêu cầu; câu hỏi tác động suy nghĩ. Ngoài ra, Thẩm phán kết hợp việc sử dụng lời nói với các tài liệu, chứng cứ và ý kiến của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan được mời tham gia phiên họp để thuyết phục đương sự.

Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về tất cả các vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Tòa án lập Biên bản hòa giải thành theo quy định tại khoản 5 Điều 211 BLTTDS và theo Mẫu số 36-DS ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban hành một số biểu mẫu trong TTDS. Trường hợp hòa giải thành thì Thẩm phán thực hiện việc ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự theo quy định tại Điều 212 BLTTDS. Nội dung Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự phải đúng theo nội dung các đương sự đã thỏa thuận được thể hiện trong Biên bản hòa giải thành. Trường hợp qua hòa giải, nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện; bị đơn rút (hoặc không có) yêu cầu phản tố; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan rút (hoặc không có) yêu cầu độc lập thì Thẩm phán căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217 BLTTDS ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Trường hợp các bên đương sự chưa thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, nhưng Thẩm phán nhận thấy các đương sự có thiện chí hoặc còn có khả năng tiếp tục hòa giải thì kiên trì tổ chức các phiên họp tiếp theo. Trường hợp Thẩm phán nhận thấy không còn khả năng, cơ hội hòa giải thành thì tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Kỹ năng hòa giải vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động